Monday, May 31, 2010

THƯỞNG viết về BA

Thưởng là con gái thứ tư . Nhà chúng tôi có 10 chị em gái, lý do là ba má tôi muốn có con trai để nối dõi tông đường. Mà cứ sinh con gái hoài nên ba má tôi mới giả cho THƯỞNG làm con trai ,(và cái tên cũng để tưởng nhớ lại đứa con trai đã mất trên đường tản cư). Ở nhà ông anh rễ của chúng tôi lại đặt cho Thưởng cái tên là TỐNG ĐỊCH THANH. Vì nghịch ngợm như con trai và tính tình đơn giản, hoạt bát, vui vẽ, tròn trịa. Nhưng thời gian đã thay đổi hẳn con người, bây giờ Thưởng trầm tĩnh, ốm nhom...

Sau khi đọc tin nhắn của chị tôi, đang ở cách tôi nửa vòng trái đất, nói các em có kỹ niệm đặc biệt gì về ba, nhớ viết gởi chị. Những kỹ niệm thân thương về ba chợt vỡ oà trong óc tôi. Không ngăn được cảm xúc, tôi ngồi vào máy gõ liền một mạch, dù lúc này đã 3 giờ sáng, như để cám ơn về những tình thương mà Ba đã dành cho tôi thời con gái.

Với tình yêu tinh khôi đầu đời, tôi một cô giáo trẻ đôi mươi, thật hảnh diện với nhiều người theo đuổi, song tình cảm của tôi chỉ hướng về một người. Một chiến binh của thời bom đạn . Tôi còn nhớ năm 1972 một mùa hè rực lửa chiến tranh, chàng được những ngày phép ngắn ngủi về thăm tôi. Nhưng để gặp được và vào được gia đình tôi không phải là điều đơn giản. Rào cản đầu tiên là má tôi. Với cái lý luận đơn giản muôn đời của các bà mẹ là con gái tuổi Dần cao số , không nên lấy chồng sớm.
Nhưng không ngờ ba tôi lại thông cảm hơn, và còn cho phép tá túc trong căn phòng nhỏ của chị Phượng đang đi thăm chồng ở DI LINH.

Những ngày phép ngắn ngủi tuyệt đẹp, ngồi cạnh nhau bên ly càphê thơm ngát, nhưng bữa cơm gia đình thân thương, tôi đan cho chàng cái áo len mùa đông...chúng tôi đã tỉ tê tâm sự biết bao nhiêu điều....Cho đến bây giờ tất cả đều thay đổi, mỗi người đi mỗi ngả nhưng mọi thứ như ngấm vào trong tôi mãi mãi...

Ngày chàng lên đường, Ba tôi sau giấc ngủ trưa ngắn ngủi đã lái xe đưa chúng tôi ra phi trường và ngồi chờ chúng tôi bịn rịn chia tay.
Giờ đây ngồi nhớ lại ba, ngoại trừ cái tính nóng nảy Ba tôi là người cha độ lượng, tràn đầy tình yêu thương con cái.

Ngày ba mất chàng đã trở về quỳ bên quan tài như để tạ lỗi với Ba vì đã không đưa được tôi đến bến bờ hạnh phúc.
Mãi mãi BA vẫn sống trong tâm tưởng của chúng con, một bầy con ít nhiều cũng thừa hưởng nơi BA một tâm hồn thơ văn và độ lượng.
MỖI ĐOÁ HOA HỒNG dành cho tôi, tôi sẽ kính dâng lại BA.
Nguyễn Thị Thưởng

(Chí Hương viết) Chuyện về ba tôi

Ba tôi vừa mới mất cách đây ba tuần. Hôm nay là đúng 21 ngày cúng thất của ba tôi. Ba tôi mất đi đễ lại trong tôi một cảm giác hoang mang khó tả. Mặc dầu ba tôi đã cao tuổi , cái tuổi mà người già nào cũng mong ước sống cho đến như vậy, song trong thâm tâm tôi vẫn muốn ba tôi còn thọ hơn vậy, vì ông là người rất mạnh mẽ và không bệnh tật gì.

Ba ra đi để lại một người vợ và cả một bầy con mà ai nấy đều đã trưởng thành, còn mẹ tôi là một phụ nữ bản lĩnh. Ba tôi mất, mẹ tôi tuy có đau buồn nhưng là một người mạnh mẽ, bà đã vượt qua nổi đau vẫn quán xuyến nhà cửa bình thường và lại là một bà mẹ đầy bao dung để cho cả bầy con chúng tôi tin tưởng vào bà.

Tôi là cô con gái thứ trong gia đình. Tôi được sinh ra vào cái năm gọi là bước ngoặt trong cuộc sống của ba tôi trên con đường thăng quan tiến chức, vì vậy tôi có cái tên của một đứa con trai: “Chí Hướng, mẹ tôi lại can thiệp không cho tôi tên Hướng, bà lý luận tên con gái thì phải nhẹ nhàng nên đã bỏ đi dấu sắc, vì vậy tên Chí Hương đã có trong khai sinh của tôi từ đó.

Ba tôi là một công chức gương mẫu, một lòng làm ăn chí thú để lo cho mẹ tôi và cả bầy con. Trong những lúc trà dư tửu hậu tôi là đứa con gái thường hay đứng hầu sau lưng ba để được ba kể cho nghe những mẫu chuyện buồn vui trong cuộc đời ba. Lúc đó, tôi cũng chỉ nghe mà chưa thấu hiểu hết sự sâu sắc, chua cay trong những mẫu chuyện đó. Đến bây giờ lớn lên tôi mới thấm thía sao cuộc đời ba tôi có nhiều uẩn khúc và gian truân lắm vậy.

Đến sau l975, ba tôi đi làm cầu đường, xây dựng vùng KTM, ở những buôn, làng xa xôi hẻo lánh, sau những công việc mệt nhọc, cuối ngày ba tôi ngồi làm thơ và viết lại những mẫu chuyện có thật trong cuộc đời ba cho những đứa em của chúng tôi.
Khi ba tôi mất, mẹ tôi lục lọi những đồ vật và sách vở ba tôi để lại thì mới thấy những câu chuyện ba tôi viết cho các em tôi thật là cảm động. Chị em tôi đều đọc và khóc vì thương cho cuộc đời ba lúc còn trẻ sao mà gian khổ đến thế.
Tôi và đứa em gái Thu Minh là gần gủi ba mẹ tôi nhiều nhất, còn các chị và những em khác thì ở xa, người thì nước ngoài, ngừơi thì ở vùng ven, một số thì ở Sàigòn, Đalạt, nên khi ba mẹ tôi có chuyện gì thì chỉ có hai chị em tôi là kịp thời hơn cả. Thu Minh thì cũng góa chồng như tôi, nhưng lại có điều kiện để săn sóc ba mẹ tôi nhiều hơn tôi, còn tôi cuộc sống có nhiều ràng buộc nên nhiều khi tôi cũng có sơ sót, không thường xuyên săn sóc ba mẹ.
Cho đến khi ba tôi bị bệnh thì hai chị em tôi cũng hết lòng lo lắng trong một tuần ở bệnh viện hai chị em tôi cố gắng thay phiên nhau để săn sóc cho ba. Khi bệnh tình thuyên giảm, bác sĩ cho về nhà điều trị, cứ tưởng là ba sẽ lành bệnh và sống với chúng tôi thêm một thời gian nửa, nhưng không ngờ chỉ hai ngày sau là ba tôi đã bỏ mẹ tôi và chúng tôi để ra đi vĩnh viễn, thật là đau buồn và hụt hẩng. Thì ra, bây giờ tôi mới hiểu là ba tôi đã mong chờ các anh chị ở xa về mới trút hơi thở cuối cùng, cố gắng trong một tuần lễ ba tôi chỉ gặp được em trai thứ của tôi đi Hàn quốc về, còn mấy chị ở nước ngoài thì không thể kịp vì đường thì qúa xa mà sức ba tôi đã tàn rồi. Vậy là ba tôi đã ra đi để lại sự tiếc nuối không nguôi cho chị em chúng tôi, nhất là chị lớn của tôi đã khóc và đọc thơ trước quan tài của ba tôi mà không biết ba tôi có nghe và chứng kiến cho chị tôi không ?

Ba ơi! Bây giờ ở trên cao đó có thấu cho chúng con, lúc nào cũng nghĩ về ba và ba có tha thứ cho sự chậm trễ cho chị em chúng con không?
Bây giờ chúng con chỉ biết một lòng lo lắng và chăm sóc mẹ chúng con để bù đắp một phần nào sự sơ sót đó.
Trên cao đó, xin ba hãy hoan hỷ và tha thứ cho chúng con

Đứa con gái thứ của ba
Chí Hương

NGUYỄN Q ĐÍNH viết về BA
Em nhớ một kỹ niệm như sau:

Ngày Ba đi làm Cầu đường ở đâu đó về năm 1976 (một năm sau giải phong, 11 tuổi - Bàng tuổi con trai em bây giờ) một lần có một người nào đó đem tiền về nhà cho Ba tại nhà số 17 Bà Triệu, không biết bao nhiêu nhưng có một bịch tiền cắc. Em đang đi học về, bước vào nhà thì chỉ thấy Ba đang ngồi tại chiếc bàn tròn (bàn ăn cơm gắp lại được của gia đình) kêu em lại. Em ngặc nhiên bước lại gần ba và người khách đó, Ba nói :
- Ba cho con 1 đồng xu (khoảng 1000 VND bây giờ) con có thích không?.
Vừa sung sướng vùa ngạc nhiên, em trả lời:
- Con sẽ giử đồng xu này đến ngày con sẽ làm ra được nhiều đồng xu hơn. Ba cười vang với người khách đó và không nói gì cả. Em chỉ biết nói vậy rồi chạy đi chơi với đồng xu trong tay mặt. Có lẽ câu trả lời đó em hy vọng đã làm Ba vui lòng.
Rồi ngày qua ngày em đã lo học hành chăm chỉ và luôn có những kết quả tốt nhất em đã cố gắng. Câu chuyện đồng xu của Ba đơn giản nhưng em đã không bao giờ quên.
Nguyễn Q. Đính

Saturday, May 29, 2010

DRAN_DON DUONG

Đập Thuỷ diện Đa Nhim

Dran_Đơn Dương nằm dưới thung lủng nhìn từ xa

QL.20 xuyên qua Dran

Chuyện BA ở TÙ tại DRAN (ĐƠN DƯƠNG cách DALAT 36KM.)

Tôi không biết sau khi ở Phanrang một thời gian,thì có lẽ chiến tranh chấm dứt,mọi người đi tản cư trở về Dalat . Má tôi cũng về Dalat và ở tạm nhà cuả bác Chín, anh cùng cha khác mẹ với Ba tôi (ông bác ở làng ngày xưa ) .
Tôi còn nhớ hồi đó mỗi ngày tôi đều ngồi bên cửa sổ khóc, vì má tôi phải đi lên lò gạch tìm việc làm. Tôi bị bà ngoại của mấy anh chị la hoài . Tôi ngồi nhìn qua mấy cái nhà đèn ở xa xa, mà cứ nghỉ là má tôi đi vô đó, dù chẳng biết đó là đâu, chỉ nghe mọi người chỉ bên kia cầu là nhà đèn. (nhà máy điện của Tây) .

Một ngày nào đó má tôi lại dọn về ở DRAN (ĐƠN DƯƠNG). Tôi cũng không biết tại sao.
Rồi tôi được đi học lớp năm với cô giáo PHÚ . Cô Phú rất thương tôi, vì khi nào có tin ông thanh tra đến thăm trường là cô cho tôi mặc áo dài đen, thắt nơ . Mấy lần như vậy, nhưng đều bị xí hụt ...vì ông thanh tra bận việc không đến được. Có một hôm tôi và một trò con trai trong lớp cải nhau vì chuyện ghi tên nói chuyện trong lớp. Trò đó được cô cho phép ghi tên ai nói chuyện trong lớp, vì cô đang bận chấm bài.
Thường thường là tôi được ghi. Hôm đó không biết tôi quay lên, quay xuống làm gì bị trò đó ghi tên, mặc dù tôi không nói chuyện với ai hết, tôi tức mình cải nhau vơi trò đó. Tôi nói ai biểu trò ghi tên tôi, trò đó nói cô biểu, tôi nói cô nào ... , tôi mới nói vậy thì trò đó chạy lên thưa cô... tôi bị phạt quỳ lên ghế.
Cô giận tôi, chiều đó về nhà cô qua méc má tôi, tôi bị đòn và phải đi qua nhà cô chầu chực năn nỉ xin cô tha lỗi...mãi mấy ngày cô cứ làm lơ mặc kệ tôi đứng đó... tôi thật là khổ sở vì lở lời.

Ngay trước mặt nhà tôi, dưới chân núi, thỉnh thoảng tôi thấy mấy người lính THƯỢNG bồng súng và xe nhà binh chở những người tù ra đó, cột họ vào mấy cột trụ trồng sẳn, rồi bịt mắt lại . Má tôi nói hôm nay họ xử tử Việt Minh. Có lần tôi đang học trong lớp thầy Cuông, thì thấy xe nhà binh tới bắt thầy chở đi.
Chúng tôi ngơ ngác. Hôm sau thì nơi mấy cái cột đó có thầy.Tôi đứng trước nhà coi. Sau này tôi mới nghe ai đó kể lại, đáng lẽ hôm đó có tên Ba tôi . Nguyễn Hải, nhưng không biết sao họ lại đổi một người khác tên Trần Hải . Vậy là Ba tôi thoát chết và cho đến một ngày nào đó Ba được ra tù. Bấy giờ tôi mới hiểu tại sao má tôi dọn về ở Dran. Có lẽ nhờ ở trong tù Ba tôi nói được tiếng Pháp , thông ngôn cho những người không biết chữ, hoặc giúp việc cho họ, sửa xe hơi ...

Sau này Ba tôi được ra tù, tôi cũng chưa biết là Ba tôi làm gì. Có một điều tôi thấy là Ba tôi hay sửa máy móc xe hơi . Mỗi ngày tôi thấy Ba rinh về nhà một ít máy móc gì đó. Một cái đầu máy xe hơi của mấy ông Tây cho hoặc bán rẻ thì tôi không biết . Rồi mấy cái bánh xe, rồi cái volant. Tôi thấy Ba tôi ráp cái đầu máy trên một cái giàn có 4 cái bánh, cái volant, cái ghế, rồi Ba tôi leo lên ngồi lái chạy vòng trong phố .
Ai cũng nhìn, một cái xe trụi lụi có một người ngồi lái mà cũng chạy. Thời bấy giờ có lẽ ngoài xe nhà binh 10 bánh, hoặc xe của ông sứ Tây, không ai có xe hơi cả, chỉ di chuyển băng xe ngựa đi gần, còn đi xa thì tôi không biết. Ba tôi là người đầu tiên ở làng này có xe hơi.
Rồi ba tôi đóng thêm cái thùng xe, để che chỗ ngồi khi trời mưa, lúc này thì tôi đã được lên ngồi bên cạnh đi vòng trong phố, cho đến khi cái xe có luôn cái thùng đằng sau là hoàn hảo, có thể mỗi tuần Ba chở má và tôi đi Dalat chơi... Ba tôi được đi làm lục lộ (Công chánh) làm surveillant, nên sau này dân trong làng gọi Ba tôi là ông XU HẢI./

CHAY XUONG PHANRANG

Tháp Chàm Phan Rang

Trên đường chạy từ Dalat xuống Phan Rang, má tôi đã sinh em bé giữa rừng, không biết đã đến ngày tháng chưa, hay vì đói khát, mệt mõi quá má tôi không đủ sức, phải sinh sớm.  Rất may gặp một liên lạc viên của VM là bác Phạm Xuân Uyển đỡ đẻ cho má tôi, mẹ con bình yên rồi bác chỉ đường cho má tôi đi lần xuống Phanrang. (sau này tôi lên DALAT học ở nhà bác Uyển và là hàng xóm của Trần Huy Sao. )

Vừa sinh xong, người còn yếu, phải bồng dắt 3 đứa con, má tôi không chịu nỗi, và vì em trai tôi bị đau,  nó không đi bộ nỗi, nên má tôi đã gởi em bé vào một viện mồ côi của bà xơ ở NẠI _Phanrang.
Tôi cũng không biết bằng cách nào mà má con tôi xuống tới Phanrang rồi còn qua bên kia biển, là NẠI. Còn lại 2 đứa, má tôi bồng em trai tôi đã lã người trên vai. Đến khi má tôi đặt nó nằm
trên một tảng đá thì nó đã chết. Tôi biết vậy và chỉ đứng nhìn, không khóc. Má tôi dặn, thôi em mất rồi, con đứng đây để má đi tìm người giúp. Má đi tới một ngôi nhà gần đó và lúc ra có một ông đi theo ra, cầm theo cái cuốc và mấy tờ báo. Má gọi ông là MỆ PHÒNG, sau tôi mới biết mệ là em của Ưng Quyền , Ba của Song Xuân và Xuân Ninh .
Mệ (tôi gọi theo má) đào đất sâu độ 3 tấc, rồi nói má tôi bế em bỏ xuống, lấy mấy tờ báo đậy mặt em lại, rồi lấp đất. Lúc bấy giờ tôi mới khóc, và hỏi má sao chôn em vậy ? MÁ nói em chết rồi.
Má lấy một tảng đá dưng đầu mộ để làm dấu, nếu sau có dịp về tìm. 
Sau đó Mệ Phòng dắt 2 mẹ con tôi vào nhà, họ cũng tản cư từ Dalat xuống. Họ cho chúng tôi ăn cơm với canh cà chua thịt bò .
Một bữa ăn ngon mà tôi nhớ suốt đời ,"canh cà chua thịt bò", và sau này các con tôi được ăn canh này đều đều...

Sau đó má dắt tôi đi tới viện các bà xơ, má nói bây giờ xin em Trà Co lại . Khi chúng tôi đến nơi có bà sơ ra đứng bên kia cửa rào, bà hỏi :
- Muốn gì? . Má tôi nói :
- Xin lại đứa con gởi hôm qua.
Bà đi vô, chốc trở ra nói :
- Nó chết rồi . Má tôi hỏi :
- Nếu chết thì chôn ở đâu ? Cho tui ra thăm mộ.
Bà sơ không trả lời bỏ đi vô, và đợi hoài không được, má tôi dắt tôi đi, má nói không biết nó còn sống hay chết. Thôi má đi ra chợ kiếm việc làm. Tôi nhớ mỗi ngày má đều dắt tôi ra mộ cúng em một cái bánh ít....

BA DI DALAT




Được học hành chưa tới Primaire - Tiểu học (chương trình Pháp)thì Ba phải đi làm việc. Ba kể là được vào làm ở sở Bưu Điện Huế và cưới vợ năm 25 tuổi. Được bà nội cưới cho con gái của ông Tôn Thất Huề . Bà Tôn Nữ ThanhThảo . Ông này là quan của triều đình Huế .(Tôi không rõ lắm)*

Sinh được một đứa con gái,l à chị cùng cha khác mẹ với chúng tôi, và sau này Ba tôi đem chị về nuôi cho tới lớn . Khi chị tôi lên 2 tuổi thì hai vợ chồng có chuyện cải nhau. Bà này có lẽ ỷ thế con quan nên có nặng lời với ba tôi. Ba tôi tính nóng, nên cũng tát cho bà một bạt tai. Bà nằm vạ mấy ngày, Ba tôi năn nỉ không được, còn sợ bà không ăn thì chết nên ba tôi tìm cách trốn khỏi Huế. Trước khi đi, ba tôi cũng chôm ít tiền tem của bưu điện để làm lộ phí. Sau bà nội tôi phải trả lại tiền này.

Vào Dalat thì ba tôi xin đi làm Công chánh, vì biết tiếng Pháp nên cũng được làm cai (surveillant), và trong thời kỳ này Ba còn làm Việt Minh nữa, nên sau đó bị đày ra làm đường xe lửa ở ga SUỐI KIẾT _ ga Mương Mán _ Phan Thiết.
Ở nơi rừng thiên nước độc này, buồn quá nên Ba đi về làng tìm chân lý. Và gặp ngay cô gái nhà quê, làm biếng học cứ nhét sách vở bụi tre đi đánh thẻ, bị quì xơ mít, Ba tìm cách giải thoát cho má khỏi bị đi học nữa, và xin hỏi cưới lẹ và đem đi liền. Má ra ở với Ba được một năm thì đi về làng để sinh em bé . Để kỹ niệm nơi đã kết tinh một mối tình chớp nhoáng ba đặt tên cho đứa con gái là Suối Kiết, chứ thật sự má kể lại là khi về làng ông ngoại phải đỡ đẻ cho má, cũng rất khó khăn, vì sinh ngược phải dùng đến cọng đu đủ mới hút ra được. Ông ngọaị đặt tên là Soạn tiếp theo tên má và cậu là Biên,Tu (hồi trước ông ngoại đi lính cho Pháp đã đở đẻ cho nhiều bà vợ tây).

Sau đó má bồng tôi ra Huế về phủ ở ít lâu với bà nội rồi qua Dàlạt.
Đến khi tôi lớn lên 3,4 tuổi, thì ba được đôỉ về làm đường ở TRẠI MÁT _ĐALẠT. Tôi có thêm một em trai nhỏ thua tôi 2 tuổi. Ba đặt tên cho nó là THƯỞNG, nhưng vì ở nhà kiên cử nên gọi nó là thằng MỌI . Rồi chiến tranh 39-45 bùng nổ, Ba biến đi đâu mất, tôi không biết. Má lại có bầu một đứa nữa. Tôi thấy má đắt 2 chị em tôi cùng mọi người chạy gịặc xuống Phan rang.

Đi giữa đường mọi người lạc đâu hết chỉ còn ba mẹ con tấp vào một chòi tranh ngồi nghỉ.
Tôi không biết là Ba có dặn má đi tới đâu đó thì gặp ba không, nhưng hình như ở căn nhà này ba má gặp nhau, thì thình lình nghe Tây tới, Ba lật đật bỏ chạy, và để quên một trái lựu đạn ngay trên thành cửa sổ, tôi vẫn còn nhớ. Khi đám Tây tới thì có một ông thông ngôn VN mà má gọi là Việt gian. Ông vào nhà thấy ba mẹ con tôi và trái lựu đạn trên thành cửa sổ ông liền hỏi :
- Việt Minh đâu ?
Má tôi trả lời :
- Không biết. Ông doạ, mày nói láo :
- Tụi nó trốn đâu ? không nói ,tao bắn . Ông giơ súng lục lên dọa má tôi . Má tôi không sợ còn đứng dậy ngẩng cổ lên thách :
- Không biết, muốn bắn hả, bắn đi ! Đàn bà con nít thôi, không có Việt Minh .
Ngay lúc ấy một ông lính Tây (có lẽ sĩ quan) bước vào ngăn ông Việt gian, ông Tây nói gì đó ..nên ông Việt bỏ đi ra...cầm theo qủa lựu đạn. Khi họ đi rồi, má tôi mới hoàn hồn, và nói :
- Má sợ quá nên nói liều !

Trên đường chạy tản cư má tôi sinh một bé gái, tại vùng TRÀ CO _Phan Rang và đặt tên nó là TRÀ CO.
KHÓC CHA

Thương cha gần thế kỷ miệt mài
Vất vả một đời không quản ngại,
Lo cháu,lo con.Tất cả thành người,
Để rồi mỗi đứa một phương trời.

Hi vọng ngày về có cha mừng đón,
Nhưng ngày vui đâu sao chỉ còn nước mắt ?
Vòng tay ôm,không vòng tay ôm lại,
Đôi mắt cười nay khép mãi nghìn thu!

Thương Mẹ, từ nay liêu xiêu bóng,
Bóng của mình ta,ta với ta
Gần bảy mươi năm ,bôn ba khắp nẻo,
Lo cho con để rồi mỗi đứa một đi xa.

Mong ước một ngày vui vầy đoàn tụ
Ôi kiếp người chỉ là kiếp phù du !
Các con đây ,còn Cha đâu thấy
Chỉ mỗi mình ta,soi bóng ta...

13/09/2008
Bùi Thành Kính


TIỄN ĐƯA

Tiễn đưa ông trong một buổi chiều mưa
Khóc bao nhiêu để xót xa vừa?
Ông đã ra đi trọn vẹn lời hứa
95 năm _đời người tựa giấc mơ

Cha mẹ ơi,đời này chúng con nợ
Ơn sinh thành ,dưỡng dục luôn khắc nhớ
Biết bao lần chúng con trót lầm lỡ
Chỉ biết quay về ,khóc như trẻ thơ

Rồi ngày kia,chúng con phải bơ vơ
Mới hiểu ra cuộc sống này tạm bợ
Va vấp ưu phiền,còn đâu người che chở?
Chúng con đã sống quá ơ hờ!!

Con lê bước tìm về ngôi nhà cũ
Cha hãy xem,kià cháu con tề tựu
Bỗng giật mình,nay vành sô khăn phủ
Lặng tiễn Cha về... cõi thiên thu...

P,PIPO BUI

THO DIE'U

TIẾC THƯƠNG ÔNG NGOẠI

Lúc nào ông cũng mỉm cười
Nhưng giờ ông chỉ mỉm cười trong mơ
Cháu ngồi tiếc ngẩn tiếc ngơ
Mắt tuôn,lệ chảy không vơi nỗi buồn ...

Cháu ngoại Bắp _Tôn nữ Thùy Trang


KHÓC CHA

Từ đây con đã mất cha
Khóc than nước mắt chan hoà nỗi đau
Cha ơi cách biệt bể dâu
Lệ bao nhiêu giọt ,dạ con sầu bấy nhiêu !

Thanh Tài
Ngày 23 NOV 2008 (tt)


Tiễn ba lần cuối

Ba giờ yên giấc ngàn thu
Giả từ thế sự phù du vô thường
Thoát vòng bể khổ dương trần
Vui miền cực lạc dưới chân Phật đài
Chúng con cầu nguyện NHƯ LAI
Đưa ba theo bước chân ngài lạc an!

SK
Tôi định viết về ba sau đám tang mà sao cứ ngần ngừ hoài . Ba đi nhanh tôi trở về không kịp thấy ba lần cuối. Chưa chi mà nước mắt đã lưng tròng rồi thì làm sao mà viết được. Coi như Tết 2007 là gặp BA lần cuối.Tôi bước lên xe nước mắt rưng rưng nhưng không dám nhìn lại , vì tôi biết ba cũng đang khóc. Ba dễ khóc lắm, vui cũng khóc mà buồn cũng khóc.
Đám cưới cũng khóc mà đám ma cũng khóc. Nhưng tính Ba thì nóng như Trương Phi. Hồi xưa cả nhà từ má đến mấy chị em trong nhà đều sợ và không bao giờ dám ngồi chung bàn ăn cơm với Ba .
Giọng ba rất lớn, mỗi lần la là hàng xóm đều nghe. Vì một bầy con gái mà sáng nào ông già cũng phải hét lên, tụi bay dậy chưa, con gái gì mà ngủ trưa, làm sao kịp giờ đi học...vậy là cả đám ra đánh răng rửa mặt, rồi mạnh ai nấy chuồn, Ba cũng đã đi ra Công trường từ lâu.

Tôi thì coi như được ba thương nhất, vì đứa con gái đầu đã trải qua nhiều đoạn đường gian khổ của Ba. Nhiều kỹ niệm vui buồn khi Ba mới ra tù (45-46..) chỉ có mình tôi là đứa con biết chia xẻ. Rồi tôi đi học từ lớp NĂM cho tới lớp NHẤT, một mình ba đưa đón, những đêm tôi đi học về khuya...Có một ông ma đi đằng trước mà tôi vẫn yên tâm đi theo đàng sau, không nói lời nào cho đến khi ông ma mở cửa vô nhà, tôi leo lên giường ngủ mà cũng không biết chắc là ai cho đến bây giờ. Sau này chúng tôi lớn lên, đứa nào cũng kiếm việc làm phụ giúp gia đình.

Tôi nhớ hồi tôi lảnh tháng lương đầu tiên đưa cho má, Ba biểu đưa lại cho tôi, vì ba nói tội nghiệp nó, mới lảnh lần đầu để sắm sửa.Tôi không ăn diện, mấy em tôi cũng vậy. Chúng tôi sắm sửa vừa phải đủ để thành cô giáo gọn gàng lịch sự.
Nhà tôi ở khu gia đình Công chánh BMT, mái tôn, vách ván, chị em không có phòng riêng. Nhưng chúng tôi cũng không lưu ý tới. Có chàng Không quân tán Phượng ghé qua nhà một đêm, chê nhà chúng tôi nghèo và đi biền biệt. Chúng tôi cũng không để ý điều này, vì biết nhà mình nghèo, không đòi hỏi gì hơn, nhưng khách cũng không thiếu mặt ngày nào !

Sau đó má mở thêm quán cho thuê truyện, thì anh hùng khắp nơi đều tới thuê truyện, luyện chưởng. Có giáo sư đi SÀIGÒN mua giùm truyện chưởng mới cho kịp tiếp theo.(thời của CÔ GÁI ĐỒ LONG, ANH HÙNG XẠ ĐIÊU...)
Ba má tôi thỉnh thoảng cũng cải nhau vì kinh tế gia đình, nhưng rồi má tôi nhịn, vì ba tôi nóng. Đến khi ba tôi im thì má tôi bắt đầu mở máy, nói năng có đầu đuôi ba tôi ngồi im chịu trận và luôn luôn kết luận một câu : Phải chi mạ mi chịu khó đi học hồi nhỏ thì bây giờ đã thành trạng sư ! chúng tôi cười góp và không dám có ý kiến.

Cuộc sống của chúng tôi tuy bình lặng nhưng thỉnh thoảng cũng có những cơn sóng ngầm, làm má tôi cũng lo lắng buồn phiền, và tôi là người đứng ra gánh mọi chuyện thay má. Tôi thấy những khó khăn của một gia đình đông con, nhất là đông con gái, có khi không kiểm soát nổi. Dù chúng tôi chỉ ăn và học, làm việc trong nhà. Tôi là chị cả, giỏi tài điều khiển, chứ không làm gì hết . Tôi chế biến ra một thời khoá biểu hàng tuần, người nào việc nấy và cứ vậy lập lại suốt quanh năm. Ai đi chợ, ai nấu ăn, ai đưa em đi học, chúng tôi đã lớn, tự lo giặt áo quần, Ba má thì có thêm người giúp việc.
Rồi tuần tự chúng tôi đi lấy chồng. Thế hệ của chúng tôi so với thế hệ của ba má thì chúng tôi may mắn ,sung túc hơn nhiều. Ngày xưa, có những lần gia đình tụ họp vào dịp lễ NOEL hay TẾT,  Ba thỉnh thoảng kể lại chuyện cuộc đời của BA hồi còn nhỏ. Có những điều tôi nghe rồi quên mất, nhưng mấy em tôi thì nhớ .

Sau ngày ba tôi mất, em gái tôi dọn dẹp đồ đạc trên gác, tình cờ nó tìm được một bức thư của ba tôi viết lại cho cho 4 đứa em gái THU MINH, NGỌC LAN, NHƯ MAI và KIM CHI. Thời gian viết thư này chúng tôi đoán là sau 75 (vì ba không ghi này tháng),khi ba đi làm ở BUÔN RAY, có lẽ những đêm buồn nhớ nhà ba chong đèn ngồi viết. Không có tên những đứa lớn ,vì chúng tôi đã lấy chồng, mỗi đứa mỗi nơi ...

Tôi nói qua một chút về đại gia đình chúng tôi. Thật ra tôi không biết rõ là Ba tôi có nhiều cháu chắt như vậy. Ngày đưa ba tôi đi Nhatrang thiêu thì PHƯỜNG, KHÓM đến đưa tiển và đọc về quá trình sinh hoạt của ba tôi cũng như khen ngợi một gia đình VĂN HÓA cuả PHƯỜNG TỰ AN...Tôi mới biết là ba tôi có tất cả hơn 65 con cháu.
Ba tôi gốc người QUẢNG TRỊ (bên ông nội), nhưng từ 2 tuổi đã được bà nội tôi đem về nuôi ở VỸ DẠ -HUẾ . Bà nội tôi vốn là một CÔNG NỮ của PHỦ TUY LÝ VƯƠNG .
Ba má tôi có tất cả 15 người con chính thức . Chị tôi là con của bà thứ nhất. Tôi là con đầu lòng của má tôi. Ba tôi kể lại cuộc hành trình của ông cho cả nhà nghe và má tôi cũng xác nhận là đúng chứ không thêm bớt màu mè. Ba tôi học ở HUẾ cùng thời, cùng lớp với ông CÙ HUY CẬN. Ba tôi ở HUẾ lúc 2 tuổi. Bà nội tôi trước khi về làm dâu QTRỊ thì là vợ của một ông quan dòng họ TRẦN QUANG DIỆU. Một tháng sau bà nội tôi không chịu nỗi sự khắc khe của gia đình này, nên xin về ! và lịch sử lập lại, mấy đời sau tôi lại vào làm dâu giòng họ này và cũng đắng cay. Lúc bấy giờ trong phủ đông đàn bà con gái quá, nên nhà vua ra lệnh cho gả mấy cô tôn nữ ra ngoài kết hôn với dân...ông nội tôi lúc đó con nhà giàu chỉ ăn chơi nên phá hết gia sản, bà nội tôi nghèo quá không nuôi con được, nên phải xin về lại phủ để nhờ giúp đỡ. Bà nội tôi có 2 chị em, bà là CÔNG NỮ VĨNH NIÊN, chị là CÔNG NỮ DI NIÊN là mẹ của ông PHẠM KHẮC HOÈ một thời danh tiếng, giàu có ở SAIGON, mà tôi gọi bằng bác. Bà nội tôi là con gái của ông TUY LÝ VƯƠNG, ông hoàng thứ 35, con vua MINH MẠNG. Hồi đó mấy cô công nữ mà làm dâu bị mẹ chồng đì thì có nước xin về, chứ không chịu khổ nỗi.

Khi ông nội tôi mất ở QT,bà nội tôi không làm gì có tiền để nuôi con, nên đem con mới 2 tuổi về lại phủ.
Đây là bức thư của ba viết cho các em sau 75.(tôi muốn để nguyên nét chữ của ba nhưng không in được)

Tóm tắt sơ lược cuộc đời ông NGUYỄN HẢI CHÂU , sinh năm 1914 ,tại MỸ CHÁNH ,QUẢNG TRỊ.

Chuyện xưa cảm động
Thân tặng các con :Thu Minh,Ngọc Lan,Như Mai và Kim Chi ,

Ngày xưa, ngày xửa, ngày xừa, ở nhà quê có một chú bé ra chào đời, tuy có cha, nhưng cha mất sớm, tên gọi Nguyễn văn Minh, cha mất khi chú bé mới 2 tuổi .Thế là cậu Minh mồ côi cha khi mới vừa 2 tuổi, nhà nghèo, không đủ ăn, lại gặp năm mất mùa. Bà mẹ còn lại duy nhứt một đứa con, rất thương yêu con, muốn con có sửa bú thì mẹ cần có ăn, bà mẹ cố gắng làm lụng vất vả nhưng cái cảnh nghèo đói vẫn theo sát bên người, không tiền, không gạo, bà mẹ phải chịu tủi nhục đến xin vay một ít lúa tại nhà ông Bác họ giàu có dư dã với vẽ khúm núm thưa trình:
- Xin bác thương cháu cho tôi vay một ít lúa, để có cháo rau qua ngày, đến khi gặt hái tôi sẽ đi làm đi mót về trả lại bác.
Với vẽ mặt dửng dưng ,ông bác trả lời:
- Lúa đâu còn mà cho mượn (tuy nhiên lúa của ông đầy tra, đầy lẫm)
Buồn cho số kiếp cơ hàn, không người giúp đỡ nên phải quay về với ngoại, nơi mà người ta thường gọi là VỸ thôn.
Ngoại tuy danh giá có thật, nhưng cũng chẳng dư dã, may ra đủ ăn.
Giao con nhờ ngoại coi sóc, rồi bà mẹ ấy đi tìm việc làm, để nuôi mẹ lẫn con.
Cái việc mà bà mẹ làm, bề ngoài thì có vẽ giúp đỡ bà con khi thiếu người giúp việc, song thật sự ra mà nói thì không khác người ở đợ, rửa chén, nấu ăn cho người bà con có nấu thầu cơm tháng cho học sinh.

Lần lửa 3 năm qua cậu Minh đã được 5 tuổi . Có lần bà mợ bên ngoại cho cậu Minh một miếng chả để ăn với cơm, theo bản tính chân thật bé Minh trả lời :
- Khôn, tui khôn ăn chả mô, tui chỉ ăn cơm với mói bạc thôi ( tiếng nói nhà quê)
Xung quanh người ta nghe vậy đều cười vang, trong tiếng cười có lẫn sự cảm động cho cái cảnh nghèo đến nỗi không còn biết đến món ăn thứ hai, chỉ có mói với mói mà thôi.(mói=muối)

XXX

Ngày bà TÙNG từ điện Phụng Tiên đi xe kéo về thăm mẹ ở phủ ba cửa (phủ TUY LÝ), có vẽ se sua dễ chịu, quần trơn áo cặp, không còn vẽ tiều tụy như hồi ở quê mới vào.
Bà Tùng (?) ấy tức là mẹ của cậu Minh, mà Minh năm nay cũng được 9 tuổi rồi theo mẹ vào ở Phụng Tiên sáng đi học tối về.
Phụng Tiên điện là nơi thờ cúng các ông vua đã thăng hà và cũng là nơi để nuôi các bà cô trong giòng dõi nhà vua (Tôn thất).

Cậu Minh được mẹ cho đi học chữ Hán, vở lòng là bộ TAM TỰ KINH, học được vài năm, chữ nghiã chưa đi đến đâu, lại có một sự quyết định khác do bà ngoại cuả Minh muốn, vì ngoại của Minh đương ở tại chùa của PHỦ , là cho Minh xuất gia làm điệu hôm mai ê a công phu hai buổi theo Phật. (chuà Phước Huệ ).
Nợ trần chưa dứt, một buổi nào đó khi Minh đã được 13 tuổi, có ông anh cô cậu ghé viếng cảnh chùa, thấy Minh ông thương, ông xin cho Minh theo ông để ông cho học hành theo thời đại...(ông ƯNG THIỀU ). Rồi Minh trở nên người hữu dụng cho đến ngày nay.
Có một điều Minh rất ân hận là khi làm ăn khá thì mẹ Minh lại qua đời. Mẹ Minh chưa được hưởng một chút gì là sung sướng trong cuộc đời của bà.
Đức hi sinh cao quý của mẹ Minh làm sáng tỏ cho lòng Minh. (1)....
Vậy các con hãy chiếu theo gương đây...và nhớ mãi mãi đừng quên.
(1) hồi đi học chữ Hán ,ông thầy đặt tên MINH. Khi đi học với ông đốc ƯNG THIỀU (cha chú VỤ, các o Phùng Mai, Phùng Khánh...) đặt lại tên CHÂU, còn HẢI là tên ở làng.

Bây giờ thì tôi hiểu tại sao ba tôi chỉ viết cho 4 đứa em gái, trong thời kỳ này chị em chúng tôi phải lo cho cuộc sống gia đình, các em gái bị hụt hẩng, phải tìm sống trong nghèo khổ đói khát, vào các buôn làng lao động, ngoài tầm tay của cha mẹ...

HUYEN THOAI VE BA

(Viết trở lại ngày 19 tháng 11/08)

Tối hôm trước ngày 11/9/08 tôi còn chat với Bơ,Chi,Phú,tụi nó nói ba khá hơn rồi, có thể ngày mai ba về nhà được, ba đã tỉnh cử động được và tự lấy khăn lau mặt, vì ba rất mừng được bác sĩ cho về.
Má vô thăm, má nói sao ông ở lâu vậy, mai về nghe. Ba khóc, chẳng hiểu tâm trạng má thế nào.
Hôm sau ba về nhà, Phượng và Thưởng thay ca săn sóc ba.
Sáng hôm sau tôi thức dậy, check mail thì thấy ngay mail của Bơ, nói ông ngoại mất rồi. Tôi khóc, nói cho con trai biết. Tôi gọi cho TÀI, nhưng Tài chưa bắt phone, tôi gọi cho Hiền nhờ Hiền cho số cell phone của TÀI.

Sau đó 2 chị em cùng nói chuyện chuẩn bị mua vé. Đính từ ÚC gởi mail qua, có cả hình 2 đưá cháu chụp với ông nội. Tôi gọi cho con gái NINA và TINA. Nina nói để con hỏi vé. Hỏi con trai có đi không? tụi nó không đi được. Một giờ sau Nina gọi lại. Má nên về nhà sửa soạn đồ đạt, sáng mai về VN 8 giờ, AIR CATHAY PACIFIC đi với Tina.

Tôi vừa mừng vừa khóc. Có người đi cùng cũng đỡ lắm, nhất là lúc này không bình tĩnh lắm. Cậu em ở Úc cũng phone qua nói, em cũng mừng có Tina đi với chị, em yên tâm hơn. Vì dạo sau này tôi hay chóng mặt nên đi đâu một mình cũng lo.
Về tới VN hai chị em (Tôi và Đính ở ÚC) gặp nhau ở phi trường Tân Sơn Nhất lúc 6giờ chiều.
Còn Thanh Tài thì sáng hôm sau mới tới. Tôi,Tina và Đính bao xe về BANMÊTHUỘT trước, có thêm Pipo và người em bà con cùng đi.

Bước xuống xe , trước nhà có che thêm một chái, Thưởng ra đở tôi đi vào, bàn thờ ba quay mặt ra đường, tôi vào lạy ba, tạ tội con về trễ...và nhìn mặt ba lần cuối...Ba còn đợi 3 đứa con ở xa , một đứa đầu , một đứa út.. một đứa giữa...có lẽ 3 đứa ba trông nhất...Tài thì sáng hôm sau mới về.

Điều làm tôi ngạc nhiên là đám ma sao mà có cả một ban trống kèn rầm rộ, tôi quên mất đây là tục lệ VN và là một " công việc" của ban kèn trống đám ma . Mấy năm đổi thay, mấy chục năm xa quê hương làm tôi quên mất điều này. Nhưng thật là ồn ào, vì mỗi lần có người tới phúng điếu là kèn trống nổi lên, ít nhất là từ 8 giờ sáng cho đến 9 giờ tối. Nhà tôi chịu đựng là dĩ nhiên, còn nhà hàng xóm nữa, họ phải nghe như vậy tới 5 ngày. Vì có những vấn đề là phải đợi chúng tôi về cho đủ mặt, 3 ngày sau thì chúng tôi đã về đông đủ, nhưng 5 ngày sau mới thiêu, vì lý do Thầy không chọn được ngày tốt .
Khi có người đến phúng điếu, trống nổi lên là tôi than phiền, nếu mà ở bên kia chắc POLICE phạt từ lâu. Mấy em tôi nói bên này họ cũng chỉ cho có 48 tiếng thôi, nhưng vì nhà mình đặc biệt. Phường, Khóm cũng thông cảm... rồi tụi nó còn nói... chị mà dẹp ban trống kèn là lỗ đó... vì khi có trống kèn là có người tới ...là có bì thơ...mà mỗi ngày phải nấu cho gần 60 người ăn, một tay Thu Minh lo điều khiển bếp núc, đãi khách xa, đãi bạn bè, đãi con cháu, đãi ban kèn trống...

Nhà này đám ma mà như đám cưới, lúc nào cũng ồn ào rộn ràng con cháu...thành khóc một hồi rồi cười rúc rích... lâu lâu anh chị em, bà con, họ hàng xa gần mới có dịp tề tựu đủ mặt...Ba dù mất cũng vui lòng tha thứ !
Mỗi tối mấy người con trai, con rễ, cháu đều thay nhau canh bên cạnh quan tài. May quá là mấy ngày chờ đợi trời mưa, khí hậu mát, sau này có ông thầy bói nói nhà này có hồng tang, con cháu về sau sẽ ăn nên làm ra. Tôi không biết đúng không, chứ lúc này kinh tế đang tuột dốc, đồng Đô (Dollar) xuống giá, thức ăn, gạo lên giá, tiền làm ra khó...Các thầy trên chùa đến tụng kinh cầu siêu mấy lần.
Đây thêm một huyền thoại, đêm tụng kinh cuối cùng, mưa như xối xả, trời khóc người rưng rưng lệ, sân trước nhà thì nhỏ, phải che bạt, nước mưa nhiều quá, bạt thụng thành một đường nước dài chảy xuống,.mọi người phải tránh không thì ướt hết, nhưng thầy vẫn tụng kinh và mọi người phải nghiêm chỉnh.
Đến lúc thầy đi lên gác để tụng kinh bàn Phật ở trên, chúng tôi chỉ theo lên vài người, nhưng 3 người con trai thì phải lên hết, vì phải bưng hình Ba, bát nhan...
Lên đến nơi, mọi người quỳ xuống trước bàn thờ. Phía trước bàn thờ là cái lan can, có treo hình ông TUY LÝ MIÊN TRINH, xây mặt ra đường.

Chuyện là như vầy, cái chỗ treo hình ông MT trước là chỗ treo hình bác HỒ. Một hôm, (em tôi kể) có bà TÔN NỮ ĐA ĐA (tôi không rõ lắm về bà này) ghé qua thăm gia đình tôi (chắc là họ hàng...?) Bà lên bàn thờ thắp nhang và thấy hình ông TLMT để ở chính giữa và hình thờ con cháu xung quanh. Bà nói không được, nếu để vầy thì con cháu cứ hầu ông hoài không siêu thoát, bà đề nghị rọi lớn hình ông rồi đem ra trước treo lên chỗ hình bác Hồ, vì bác cũng còn nhỏ
hơn ông. Hình bác HỒ thì đem treo qua bên hông.Bây giờ thì ba tôi không có ý kiến .Chứ hồi mới đổi đời mà treo vậy là không được. Kim Chi có kinh nghiệm về chuyện này, vì có lần mượn hình bác đi diễn hành diễn văn nghệ gì đó, quên trả lại bị đòn một trận...Ba tôi nói :
- Mi không biết sao, bi giờ mà không có bác là không sống nỗi ..(.mặc dầu bác đâu cho củ khoai nào)

Theo tục lệ nếu nhà có tang, đang làm lễ thì các hình khác phải phủ lại. Thật sự tôi cũng không biết rõ mấy chuyện này. Cái hình cuả ông MT được phủ lại bằng một tấm màn xanh. Vừa lúc thầy bắt đầu xướng kinh thì một tiếng sấm thật lớn vang lên, mọi người đều giật mình , tưởng như nhà bị sập không biết ai đó đã đụng giật tấm màn xéo ra một bên, tấm hình nhỏ để bên góc, hình ông TL hiện ra, mọi người ở dưới ngẩng đầu lên đều có cảm giác như ông vừa hiện về.. .thật sự đây chỉ là một sự tình cờ thôi nhưng ai nấy đều chú ý...và biến thành một huyền thoại là ông ấy về dẫn Ba đi...và người kể lại chuyện này cho tôi nghe là anh chàng camera, vì anh ấy cũng quay luôn lúc đó.

Sáng hôm sau ngủ dậy cô em tôi nói với đứa cháu con của Đạt.
- Tối qua nằm thấy Ba mặc đồ đẹp, có một người về dẫn ba đi xa lắm...


Những bài thơ điếu BA:

ĐIẾU THƠ TẠ LỖI
(cuả con cháu về trễ)

Ba đau con cứ chần chờ
Đâu ngờ ba nuối đợi chờ các con
Cúi đầu tạ tội trước vong
Đường xa chậm trễ tấm lòng xót xa
Cầu xin Ba rộng lòng tha
Hôm nay tề tựu tiển Ba lên đường
Nguyện cầu nơi chốn ngàn phương
Ba yên giấc ngủ miên trường bình an !
Các con xa

SUỐI KIẾT_THANH TÀI_QUANG ĐÍNH
cháu   BOI QÙY TINA

HUYEN THOAI VE BA

Viết ngày 12/NOV/2008 LÚC 10GIỜ03


Tang lễ cuả BA


ÔNG NGUYỄN HẢI tự CHÂU
SINH NĂM 1914 tại MỸ CHÁNH
tai HAI LANG _QUANG TRI
MẤT NGÀY 12 THANG 9 NĂM 2008
NHẰM NGÀY 13 THÁNG 8 NĂM MẬU TÝ
Hoả thiêu ở gần đèo RÙ RÌ NHATRANG theo ý cua BA .

Wednesday, May 26, 2010

GIAN HOA PHAO


Nhà tôi ở cạnh ngôi trường
Có giàn hoa pháo ,có hàng HOA VĂN
Bao đêm trò chuyện dưới trăng
Một trời kỹ niệm , ngàn năm chưa nhoà!
NS
 

Ngày ấy nhà tôi
Có giàn hoa pháo
Có vài cô giáo
Có quán HOA VĂN
Cơm chiều vừa xong
Ngồi dưới giàn hoa
Xích đu kiu kít
Chuyện trò rầm rang .
NS

 
Dưới giàn hoa xác pháo

Thuở ấy chiều êm dưới nắng vàng!
Có người con gái bước sang ngang
Có giàn hoa pháo buồn đưa tiển
Có kẻ nhìn theo tiếc lỡ làng!
TT

Tuesday, May 25, 2010

HOA ĐÀO DALAT


Phố xưa lưu luyến bao tình !
Xuân Hương biên biếc ngỡ mình chiêm bao,
Hàng thông xanh vút rì rào,
Đào hoa hồng thắm nghiêng chào gió Xuân .

ThiênThanh