THIỀN VIỆN
Thiền viện nằm nghiêng giữa đồi mây
Rừng trúc quanh co đón gió đầy
Viền lưng đồi cỏ,quanh lối đá
Ngàn sắc hoa chen, nở đường mây
Tuyền Lâm im bóng duới rừng cây
Tháp treo lơ lững ngang triền núi
Người chọn nơi đây mở cửa thiền
Phật về ngự giữa chốn thiêng liêng
Sao nghe thanh tịnh thần tiên quá ?
Hồi chuông vang đổ giữa đại ngàn
KIMCHI
HỒI CHUÔNG BÁT NHÃ
Hồi chuông bát nhã
Lúc đục lúc trầm như lung như lay
Khơi lòng con hay bể đời còn đọng
Chìm trong vọng động là tiếng chuông
ngân
Như ngọn lửa bừng soi đời bể khổ
Soi nẻo đường con vạn dặm quay về
Hồi chuông bát nhã
Lúc khoan lúc nhặt ,lúc dập lúc dồn
Thôi thúc lòng con nguyện cầu sám hối
Dẫn lối soi đường nương về cõi Phật
Nghe hồi bát nhã
Rạng rỡ chân kinh oai linh nhiệm mầu
Con xin cúi đầu
A DI ĐÀ PHẬT
NỤ CUÒI PHẬT
Con đi dưới bóng từ bi
Mắt chiêm bái phật –vôvi nụ cười
Hoa sen nở trắng phật đài
Bình tâm con nguyện cuộc đời an nhiên
Phật cười như thể vô biên
Con đường chân lí ngát hương cõi trần
Bể đời muôn nẻo trầm luân
Đường con đi đã muôn phần khổ đau
Bây giờ quay lại chân người
Bâu đuôi áo phật -từ tâm nụ cười
Tỳ ni lá rụng sân chùa
Con xin quét sạch dọn lòng thành tâm
Từ nay sám nguyện ăn năn
Vui đời phật sự xã tâm con về
KIMCHI
Fw: Tho^ng Ca'o Ba'o Chi' - Tie^'n si~ Nguye^~n Quo^'c Qua^n d-a?ng vie^n Vie^.t Ta^n bi. CSVN ba('t giu+~
TO: 2 More2 recipients
CC: recipientsYou
More
BCC: recipientsYou
Xin chuyển .. TH, --- On Sun, 4/29/12, Trieu Chau wrote:
|
NHƯ ĐỨC= SỰ TÍCH THẬP BÁT LA HÁN
TO: More recipients
CC: recipientsYou
More
BCC: 1 recipientsYou
Tác giả : Như
Đức
MỤC LỤC
LỜI ĐẦU SÁCH
Tên
của Ngài là Phạt-na-bà-tư 伐那婆斯 (Vanavāsin). Theo truyền thuyết khi mẹ Ngài vào
rừng viếng cảnh, mưa to dữ dội và bà hạ sanh Ngài trong lúc ấy. Sau khi xuất gia
với Phật, Ngài thích tu tập trong núi rừng, thường đứng dưới các cây chuối nên
còn được gọi là La-hán Ba Tiêu.
Tên của Ngài là Nhân-yết-đà 因羯陀 Nhân-kiệt-đà
(Angada). Theo truyền thuyết Ngài là người bắt rắn ở Ấn Độ, xứ này nhiều rắn độc
hay cắn chết người, Ngài bắt chúng, bẻ hết những răng nanh độc rồi phóng thích
lên núi. Hành động ấy phát xuất bởi lòng từ cao độ, nên Ngài được xem như biểu
trưng của từ bi. Sau khi đắc đạo, Ngài thường mang một túi vải bên mình để đựng
rắn, cũng trùng hợp như Hòa thượng Bố Đại ở Trung Hoa.
Tên của Ngài là Ca-nặc-ca-bạt-ly-đọa-xà
迦諾迦跋釐墮蛇 (Kanakabharadvāja). Ngài là vị Đại đệ tử được đức Phật giao phó giáo hóa
vùng Đông Thắng Thần Châu.
Ngài
tên là Nan-đề-mật-đa-la 難提密多 (Nandimitra), Trung Hoa dịch Khánh Hữu, ra đời sau
Phật diệt độ 800 năm, cư trú tại nước Sư Tử.
Hình tượng vạch áo bày ngực để hiển lộ tâm
Phật. Ngài tên là Thú-bác-ca 戍博迦 (Jivaka). Thú-bác-ca vốn là một Bà-la-môn nổi
danh, nghe nói thân Phật cao một trượng sáu, Thú-bác-ca không tin nên chặt một
cây trúc dài đúng một trượng sáu để đích thân đo Phật. Lạ thay, dù đo bất cứ
cách nào, thân Phật vẫn cao hơn một chút. Thú-bác-ca tìm một cây thang dài rồi
leo lên thang đo lại, kết quả cũng vậy. Đo đến mười mấy lần, không còn cây thang
nào dài hơn mà thân Phật vẫn cao hơn. Lúc này ông thiệt tình khâm phục và xin
quy y làm đệ tử.
Tên của Ngài là Chú-trà-bán-thác-ca, hay
Châu-lợi-bàn-đặc 周利槃特 (Cullapatka). Truyền thuyết Phật giáo nhắc đến Ngài như
một tấm gương cần cù nhẫn nại. Vì không thông minh như anh nên khi xuất gia Ngài
không tiếp thu được Phật pháp, kể cả xếp chân ngồi thiền cũng không xong. Về sau
được sự chỉ dạy lân mẫn của Thế Tôn, Ngài thực hành pháp môn quét rác với cây
chổi trên tay. Nhờ sự kiên trì, dốc tâm thực hành lời dạy của Phật, quét sạch
mọi cấu uế bên trong lẫn bên ngoài, Ngài đã chứng Thánh quả.
Ngài tên là Ca-nặc-ca-phạt-tha 迦諾 迦伐磋
(Kanakavatsa), còn gọi là Yết-nặc-ca-phược-sa. Đức Phật thường khen Ngài là vị
La-hán phân biệt thị phi rõ ràng nhất. Khi chưa xuất gia Ngài là người rất tuân
thủ khuôn phép, giữ gìn từ lời nói đến hành động, một ý nghĩ xấu cũng không cho
phát khởi. Sau khi xuất gia, Ngài càng nỗ lực tinh tấn tu tập, nhờ thiện căn sâu
dày Ngài chứng quả A-la-hán rất mau.
Ngài tên là Na-già-tê-na 那伽犀那 (Nāgasena) hay
còn gọi là Na Tiên. Nāgasena theo tiếng Phạn nghĩa là đội quân của rồng và tượng
trưng sức mạnh siêu nhiên. Ngài Na Tiên sinh trưởng ở miền Bắc Ấn là bậc La-hán
nổi tiếng về tài biện luận. Đương thời của Ngài gặp lúc vua Di-lan-đà cai trị,
nhà vua là người Hy Lạp vốn chuộng biện thuyết. Nghe tiếng tôn giả Na Tiên là
bậc bác học đa văn nên nhà vua đích thân phỏng vấn. Cuộc vấn đạo giữa bậc đế
vương và bậc Tỳ-kheo thoát tục đã để lại cho chúng ta một tác phẩm bất hủ “Kinh
Na Tiên Tỳ Kheo”, mà cả hai tạng Nam truyền và Bắc truyền đều lưu giữ đến nay.
Nhờ sự chỉ dạy của tôn giả Na Tiên mà cuối cùng vua Di-lan-đà trở thành vị quốc
vương anh minh hết lòng ủng hộ Phật pháp.
Tên
của Ngài là Ca-lý-ca 迦哩迦 (Kalica), trước khi xuất gia làm nghề huấn luyện voi.
Khi Tôn giả chứng quả A-la-hán, đức Phật bảo Ngài nên ở tại quê hương mình (Tích
Lan) để ủng hộ Phật pháp.
Tên của Ngài là Đạt-ma-đa-la 達磨多羅
(Dharmatrāta), người ở núi Hạ Lan tỉnh Cam Túc. Thuở nhỏ Đạt-ma-đa-la đến chùa,
rất thích chiêm ngưỡng hình tượng 16 vị La-hán thờ trong điện. Sư phụ cũng hay
kể cho cậu bé nghe những chuyện thần kỳ của các vị La-hán, dần dần trong tánh
linh trẻ thơ in đậm hình ảnh các Ngài, thậm chí khi ngủ cũng mơ
thấy.
Tên của Ngài là Bạt-đà-la 跋陀羅 (Bhadra).
Bạt-đà-la còn gọi là Hiền, vì mẹ Ngài hạ sanh Ngài dưới cây Bạt-đà, tức là cây
Hiền.
Tên của Ngài là Tô-tần-đà 蘇頻陀 (Subinda).
Thường ngày, Ngài tu tập rất tinh nghiêm, giúp người nhiệt tình nhưng ít thích
nói chuyện. Tôn giả ít khi đi theo đức Phật ra ngoài, Ngài chỉ ở yên nơi tinh xá
đọc sách hoặc quét sân. Có người phê bình cách nói chuyện của Ngài không hay,
đức Phật biết được an ủi: "Này Tô-tần-đà! Nói chuyện hay hoặc dở không liên quan
gì đến vấn đề giác ngộ. Mọi người chỉ cần y theo lời ta dạy mà thực hành, dù
không nói câu nào cũng thành tựu sự giải thoát".
Hình tượng đưa hai tay lên rất sảng khoái của
một vị La-hán sau cơn thiền định. Ngài tên là Bán-thác-ca? 半託迦 (Panthaka), Trung
Hoa dịch: Đại lộ biên sanh. Ngài là anh của Châu-lợi-bàn-đặc. Tương truyền hai
anh em đều sanh ở bên đường, khi mẫu thân trở về quê ngoại sinh nở theo phong
tục Ấn Độ.
Tên của Ngài là Phạt-xà-la-phất-đa-la 伐闍羅弗多羅
(Vajraputra). Tương truyền khi còn ở thế tục, Ngài làm nghề thợ săn, thể lực rất
tráng kiện, một tay có thể nâng một con voi, hoặc nắm một con sư tử ném xa hơn
10 mét. Mỗi khi muông thú chạm mặt Ngài, chúng đều hoảng sợ lánh xa. Sau khi
xuất gia, Ngài nỗ lực tu tập, chứng quả La-hán. Lại có một con sư tử thường quấn
quýt bên Ngài, do đó Ngài được biệt hiệu La-hán Đùa Sư Tử.
Tên của Ngài là Nặc-cù-la 諾矩羅 (Nakula). Trên
vách hang thứ 76 của động Đôn Hoàng có vẽ hình tượng Ngài ngồi kiết già trên
phiến đá. Theo truyền thuyết, Ngài thuộc giai cấp Sát-đế-lợi sức mạnh vô song,
đời sống chỉ biết có chiến tranh chém giết. Khi theo Phật xuất gia, Ngài đạt quả
A-la-hán trong tư thế tĩnh tọa.
Ngài tên là Tân-đầu-lô-phả-la-đọa 賓頭盧頗羅墮
(Pindolabhāradvāja), xuất thân dòng Bà-la-môn, là một đại thần danh tiếng của
vua Ưu Điền. Ngài thích xuất gia nên rời bỏ triều đình vào rừng núi nỗ lực tu
tập, sau khi chứng Thánh quả cỡi hươu về triều khuyến hóa vua, nhân đó được tặng
danh hiệu La-hán Cỡi Hươu.
Ngài chính là La-hầu-la 羅喉羅 (Rāhula). Sau khi
theo Phật xuất gia, nhờ sự giáo dưỡng của Thế Tôn, Ngài bỏ dần tập khí vương giả
và thói xấu trêu ghẹo người, nỗ lực tu tập để chứng Thánh quả. Ngài luôn khiêm
cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua, phòng của mình bị người chiếm ở,
Ngài lẳng lặng dời vào nhà xí ngủ qua đêm. Đi khất thực bị bọn côn đồ ném đá
trúng đầu chảy máu, Ngài lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch rồi tự tay băng bó. Tín
chủ cúng cho Ngài một tịnh thất, ít lâu sau đòi lại đem cúng người khác, Ngài
cũng bình thản? dọn ra khỏi phòng.
Tên của Ngài là A-thị-đa 阿氏多 (Ajita) thuộc
dòng Bà-la-môn nước Xá-vệ. Theo truyền thuyết khi Ngài mới sanh ra đã có lông
mày dài rủ xuống, điều báo hiệu kiếp trước Ngài là một nhà sư. Sau khi theo Phật
xuất gia, Ngài phát triển thiền quán và chứng A-la-hán.
-XIN DELETE EMAIL NAY NEU NO LAM PHIEN BAN !
SỰ TÍCH
THẬP BÁT LA HÁN
Thiền Viện Thường Chiếu

Thiền Viện Thường Chiếu

Lời Nói Đầu
01. La Hán Ba Tiêu02. La Hán Bố Đại03. La Hán Cử Bát 04. La Hán Hàng Long05. La Hán Khai Tâm06. La Hán Kháng Môn07. La Hán Khánh Hỷ08. La Hán Khoái Nhĩ 09. La Hán Kỵ Tượng | 10. La Hán Phục Hổ11. La Hán Quá Giang12. La Hán Thác Tháp13. La Hán Thám Thủ14. La Hán Tiếu Sư15. La Hán Tĩnh Tọa16. La Hán Tọa Lộc17. La Hán Trầm Tư18. La Hán Trường Mi |
LỜI ĐẦU SÁCH
Thập Bát La Hán tượng
trưng cho tín ngưỡng đặc thù dân gian. Cuộc đời của các Ngài siêu nhiên kỳ bí
nhưng rất mực gần gũi chúng sanh.
Tranh tượng Bồ-tát trình
bày một thế giới trang nghiêm hương hoa nhã nhạc. Tranh tượng La-hán trình bày
những nét sống động của các bậc Thánh hết sức hồn nhiên phụng hiến năng lực của
mình.
Tập tiểu truyện về 18 vị
La-hán được thực hiện nhân dịp thiền viện Thường Chiếu khánh thành La Hán
Đường vào tháng Chạp năm Ất Dậu (01-2006), để giúp các huynh đệ hiểu thêm về
các vị La-hán, tăng trưởng niềm tin của mình đối với Phật pháp. Đó là ước vọng
của chúng tôi.
Thiền Viện Viên Chiếu
cuối năm Ất Dậu
Ni Sư Như Đức
Ni Sư Như Đức

Có lần, đức Phật hàng
phục con yêu long trong một cái đầm sâu. Cảm phục ân đức của Phật, yêu long xin
Ngài lưu lại chỗ của mình để được gần gũi cúng dường. Phật dạy Ngài không thể ở
một nơi lâu, nên cử năm vị Đại A-la-hán đến, đó là các vị Xá-lợi-phất,
Mục-kiền-liên, Nhân-kiệt-đà, Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư. Khi tôn giả
Phạt-na-bà-tư đến tiếp nhận lễ vật cúng dường, Ngài thường thích tọa thiền trên
phiến đá lớn bên cạnh đầm, khi thì ngồi suốt tuần, lúc ngồi cả nửa
tháng.
Theo lời phó chúc của đức
Phật, Tôn giả lưu tâm hóa độ vua Ca-nị-sắc-ca. Nhân dịp nhà vua đi săn, Tôn giả
hóa làm con thỏ trắng dẫn đường cho vua đến gặp một mục đồng đang lấy bùn đất
nặn tháp Phật. Mục đồng nói rằng Phật thọ ký 400 năm sau vua Ca-ni-sắc-ca sẽ xây
tháp thờ Phật tại đây. Mục đồng ấy cũng chính là Phạt-na-bà-tư hóa hiện. Từ đó,
vua trở nên bậc đại quân vương hoằng dương Phật pháp, xây chùa tháp tự viện, ủng
hộ cúng dường Tăng chúng, tổ chức kiết tập kinh điển Phật giáo lần thứ tư tại
thủ đô Ca-thấp-di-la. Tất cả những thành tựu này đều nhờ thâm ân giáo hóa của
tôn giả Phạt-na-bà-tư.
Theo Pháp Trụ Ký, tôn giả
Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ mười bốn, ngài và 1.400 vị La-hán thường ở trong
núi Khả Trụ.
02. La-hán Bố
Đại

Nhân có một người nước
Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di-lặc, nhưng chưa được thấy diện mạo Bồ-tát
nên không dám làm. Ông lập hương án trong vườn hoa chí thành khấn nguyện, cung
thỉnh một vị Hiền Thánh đến để giúp ông. Khấn xong thì có một vị La-hán xuất
hiện xưng tên là Nhân-yết-đà, đến đưa ông lên cung trời Đâu-suất để gặp Bồ-tát
Di-lặc. Tôn giả đã đưa người này lên cung trời trước sau cả thảy ba lần để chiêm
ngưỡng chân tướng trang nghiêm của Bồ-tát. Tượng Bồ-tát tạo xong được bảo tồn
tại thủ đô nước Ô-trượng-na, đó là nhờ công ơn của Tôn giả.
La-hán là bậc bất sanh
bất diệt, đến đi tự tại, các Ngài du hóa nhân gian dưới mọi hình thức. La-hán Bố
Đại có hình tướng mập mạp, bụng to, túi vải lớn bên mình như là hiện thân của
Bồ-tát Di-lặc, trong câu chuyện trên đã có ít nhiều liên hệ.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là
vị La-hán thứ mười ba, thường cùng 1.300 vị A-la-hán trụ trong núi Quảng
Hiếp.
03. La-hán Cử
Bát

Quốc vương nước
Tăng-già-la ở Nam Hải không tin Phật pháp, Tôn giả Ca-nặc-ca tìm cách hóa độ.
Một sớm mai, khi đang cầm gương soi mặt, quốc vương giật mình kinh sợ vì trong
gương không có mặt mình mà có hình dáng vị đại sĩ Bạch Y. Đây là do phép thần
biến của Tôn giả. Theo lời khuyên của quần thần, nhà vua cho tạc tượng Bồ-tát
Quan Thế Âm để thờ phụng và từ đó hết lòng tin Phật.
Ngài Huyền Trang khi sang
Ấn Độ, trú tại chùa Na-lan-đà nghe kể câu chuyện sau: Sau khi Phật Niết-bàn vài
trăm năm, quốc vương nước Ma-kiệt-đà làm lễ lạc thành ngôi chùa Đại Phật, thỉnh
mấy ngàn vị Hòa thượng đến cúng dường. Khi mọi người bắt đầu thọ trai, bỗng
nhiên có hai vị Hòa thượng từ không trung bay xuống. Cả hội chúng kinh ngạc, vua
hỏi lai lịch thì một vị xưng là Tân-đầu-lô ở Tây-cù-da-ni châu, một vị xưng là
Ca-nặc-ca ở Đông Thắng Thần Châu. Vua vui mừng thỉnh hai Tôn giả chứng minh trai
phạn. Thọ trai xong, hai vị cười nói:
- Này các vị, 16 La-hán
chúng tôi sẽ mãi mãi lưu lại thế gian, cùng tu tập với tất cả Phật tử chí thành
đời sau.
Tôn giả Ca-nặc-ca thường
mang một cái bát sắt bên mình khi du hành khất thực, nên được gọi là La-hán Cử
Bát.
Theo Pháp Trụ Ký ngài là
vị La-hán thứ ba, thường cùng 600 vị A-la-hán trú tại Đông Thắng Thần Châu.
04. La-hán Hàng Long
04. La-hán Hàng Long

Ngài là vị Đại La-hán
thần thông quảng đại, đạo hạnh trang nghiêm. Tương truyền có một lần cả đảo Sư
Tử bị Long Vương dâng nước nhận chìm, Tôn giả ra tay hàng phục rồng nọ và được
tặng hiệu La-hán Hàng Long. Khi Ngài sắp thị tịch, mọi người buồn thương lo sợ
vì thế gian sẽ không còn bậc La-hán. Ngài cho biết có 16 vị La-hán vâng lệnh
Phật lưu trụ cõi Ta-bà để ủng hộ Phật pháp. Lời dạy của Ngài được ghi chép lại
thành bộ “Pháp Trụ Ký”. Nói “Pháp Trụ Ký” xong, tôn giả Khánh Hữu bay lên không
trung hóa hiện vô số thần biến, rồi dùng chơn hỏa tam-muội thiêu thân. Xá-lợi
ngũ sắc rơi xuống như mưa, mọi người tranh nhau lượm mang về tôn thờ cúng
dường.
Tuy đã thiêu thân, nhưng
Tôn giả không rời nước Sư Tử, Ngài bay về động đá trên núi để tọa thiền. Thời
gian thoáng chốc đã hơn 400 năm, khi Tôn giả xuất định Ngài ôm bát xuống núi
khất thực thì thấy phong cảnh đã đổi khác. Ngài nhẫm tính lại và khám phá ra
mình đã tọa thiền hơn 400 năm bèn bật cười ha hả. Sau đó Ngài thường xuất hiện
khắp nơi, khi thì trì bát, lúc thì giảng kinh… Mọi người vẫn còn tin rằng Ngài
vĩnh viễn không rời thế gian mà luôn luôn cùng 16 vị La-hán kia tiếp tục hoằng
hóa.
* Dị bản: Tôn giả
Nan-đề-mật-đa-la là vị La-hán thứ 17, do mọi người tưởng nhớ công ơn ngài nói ra
Pháp Trụ Ký.
05. La-hán Khai
Tâm

Sau khi xuất gia, trải
qua bảy năm khổ hạnh, Ngài chứng quả A-la-hán. Vì muốn kỷ niệm nhân duyên đo
Phật mà xuất gia ngộ đạo, Ngài lấy cây sào lúc trước, đi đến chỗ cũ
nói:
- Nếu Phật pháp là chân
lý ngàn đời thì xin cây sào này mọc lại và sinh trưởng ở đây.
Nói xong, Ngài cắm cây
sào xuống đất. Cây sào bỗng nẩy chồi ra lá. Thời gian sau từ chỗ đó mọc lên một
rừng trúc tốt tươi lan rộng cả vùng, người ta gọi nơi ấy là Trượng Lâm. Quần
chúng Phật tử kéo đến chiêm bái chứng tích mầu nhiệm của cây gậy đo Phật. Nơi
đây rừng núi khô cằn hoang dã, thiếu nước uống nghiêm trọng, tôn giả Thú-bác-ca
liền vận thần thông biến ra hai suối nước một nóng, một lạnh để mọi người tha hồ
sử dụng. Hai suối này nằm cách mười dặm về phía Tây Nam của Trượng Lâm. Dân
chúng vùng này mãi nhớ ơn đức của Tôn giả.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài
Thú-bác-ca là vị La-hán thứ chín, thường cùng 900 vị La-hán trụ trong núi Hương
Túy.
06. La-hán Kháng Môn
06. La-hán Kháng Môn

Một hôm đại thần Kỳ-bà
thành Vương Xá thỉnh Phật và các vị A-la-hán đến nhà thọ trai. Tôn giả
Bán-thác-ca không biết em mình đã chứng quả nên không phát thẻ tham dự. Đến khi
chuẩn bị thọ trai, Phật bảo Bán-thác-ca về tinh xá xem có sót người nào. Tôn giả
về Trúc Lâm thì thấy cả ngàn vị Hòa thượng đang tọa thiền rải rác trong vườn.
Ngạc nhiên và dùng thiên nhãn quán sát, mới vỡ lẽ ra đó là trò đùa của em mình,
Tôn giả mừng rỡ xúc động, tán thán công phu của
Châu-lợi-bàn-đặc.
Theo truyền thuyết, khi
đi khất thực Tôn giả gõ cửa một nhà nọ và làm ngã cánh cửa cũ hư. Điều này cũng
gây bối rối! Về sau, Phật trao cho Tôn giả một cây gậy có treo những chiếc
chuông nhỏ để khỏi phải gõ cửa nhà người. Nếu chủ nhân muốn bố thí thì sẽ bước
ra khi nghe tiếng chuông rung. Cây gậy gõ cửa trở thành biểu tượng của Tôn giả,
và là hình ảnh quen thuộc trong sinh hoạt Phật giáo.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả
là vị La-hán thứ mười sáu, cùng với 1.600 vị A-la-hán thường trú tại núi Trì
Trục.
07. La-hán Khánh Hỷ
07. La-hán Khánh Hỷ

Ngài thường đi du hóa
khắp nơi với gương mặt tươi vui và dùng biện tài thuyết pháp để chiêu phục chúng
sanh. Thấy mọi người thường vô ý tạo nhiều nghiệp ác hằng ngày, tương lai bị quả
khổ địa ngục nên khi thuyết pháp Ngài thường xiển minh giáo lý nhân quả thiện
ác, giúp chúng sanh phân biệt rõ ràng để sửa đổi. Một lần nọ đi ngang qua thôn
trang, thấây một gia đình đang giết vô số trâu dê gà vịt để làm lễ mừng thọ.
Ngài ghé lại, thuyết giảng một hồi về phương pháp chúc thọ, về cách mừng sinh
nhật để được sống lâu hạnh phúc, đền đáp ơn sinh thành. Ngài dạy rằng, ngày sinh
nhật là ngày khó khăn khổ nhọc của mẹ, nên phận làm con không được ăn uống vui
chơi, trái lại nên tịnh tâm suy niệm ân đức cha mẹ, quyết chí tu tập thành tựu
đạo nghiệp.
Bằng cách giảng dạy chân
thật, Tôn giả suốt đời như ngọn hải đăng đem ánh sáng Phật pháp soi rọi nhân
sinh.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là
vị La-hán thứ hai, thường cùng 500 vị La-hán trụ tại nước Ca-thấp-di-la
(Kashmir).
08. La Hán Khoái Nhĩ

Có chỗ nói ngài Na Tiên
chuyên tu về nhĩ căn, tranh tượng của Ngài mô tả vị La-hán đang ngoáy tai một
cách thú vị. Mọi âm thanh vào tai đều giúp cho tánh nghe hiển lộ, rất thường trụ
và rất lợi ích. Từ nhĩ căn viên thông phát triển thiệt căn viên thông, trở lại
dùng âm thanh thuyết pháp đưa người vào đạo, đó là ý nghĩa hình tượng của tôn
giả Na Tiên.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài
cũng là vị La-hán thứ mười hai, thường cùng 1.200 vị A-la-hán trụ trong núi
Bán-độ-ba.
09. La Hán Kỵ Tượng

Phật đến Tích Lan thuyết
kinh Lăng Già, Tôn giả cũng là một trong số đệ tử đi theo. Đức Phật sắp rời đảo,
vua Dạ-xoa cung thỉnh đức Phật để lại một kỷ niệm tại đảo để làm niềm tin cho
hậu thế. Thế Tôn ấn dấu chân của mình trên một ngọn núi, nơi đó trở thành Phật
Túc Sơn, và bảo tôn giả Ca-lý-ca gìn giữ thánh tích này. Phật Túc Sơn nổi tiếng
khắp nơi, mọi người đua nhau chiêm lễ. Trải qua thời gian nó bị chìm vào quên
lãng, con đường dẫn lên núi bị cỏ hoang phủ kín. Trong dịp vua Tích Lan là
Đạt-mã-ni-a-ba-á bị kẻ địch rượt đuổi nên chạy trốn vào hang núi, Tôn giả hóa
thành một con nai hoa rất đẹp dụ dẫn nhà vua lên núi để hiển lộ lại dấu chân
Phật. Sau nhiều triều đại kế tiếp, Phật Túc Sơn lại không người viếng thăm. Tôn
giả một phen nữa hóa thành thiếu nữ bẻ trộm hoa trong vườn của vua. Khi bị bắt,
thiếu nữ chỉ tay lên ngọn núi phủ sương mờ, bảo rằng mình hái hoa cúng Phật ở
trên ấy. Phật Túc Sơn từ đó khắc sâu hình ảnh trong lòng người, mỗi năm đến ngày
15 tháng 3 âm lịch, quần chúng kéo nhau đi lễ bái thánh tích rầm rộ không
ngớt.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả
Ca-lý-ca là vị La-hán thứ bảy, cùng với 1.000 vị A-la-hán luôn thường trụ tại
Tăng Già Trà Châu (Tích Lan).
10. La Hán Phục
Hổ

Một hôm trong khi đang
chiêm lễ, Đạt-ma-đa-la bỗng thấy các hình tượng La-hán cử động, vị thì quơ tay,
vị thì chớp mắt như người thật. Ngỡ mình hoa mắt, Đạt-ma-đa-la định thần nhìn kỹ
lại, lần này thấy rõ hơn, một số vị còn cười tươi tắn. Từ đó Đạt-ma-đa-la càng
thêm siêng năng lễ kỉnh, và ngày nào cũng được chứng kiến các kỳ tích cảm ứng.
Đạt-ma-đa-la theo hỏi một vị La-hán cách tu tập để được trở thành La-hán. Ngài
chỉ dạy cậu nên siêng năng tọa thiền, xem kinh, làm các việc thiện. Đạt-ma-đa-la
phát tâm tu hành, thực hiện lời dạy của bậc La-hán nên chẳng bao lâu chứng
quả.
Thành một A-la-hán thần
thông tự tại, Ngài thường du hóa trong nhân gian, giảng kinh thuyết pháp, gặp
tai nạn liền ra tay cứu giúp. Tôn giả ba lần thu phục một con hổ dữ đem nó về
núi cho tu, đi đâu thì dẫn theo. Bên cạnh hình tượng Ngài người ta vẽ thêm một
con hổ, Ngài thành danh La-hán Phục Hổ.
La-hán Hàng Long và
La-hán Phục Hổ là hai vị được đưa thêm vào danh sách Thập Lục La-hán, để trở
thành một truyền thuyết vĩnh viễn được tôn thờ.
11. La Hán Quá
Giang

Theo truyền thuyết, Tôn
giả rất thích tắm rửa, mỗi ngày tắm từ một đến mười lần, và như vậy rất mất thời
gian đồng thời trễ nải công việc. Chẳng hạn khi mọi người thọ trai, Ngài lại đi
tắm, khi lên ăn thì cơm rau đã hết. Nhiều buổi tối, Ngài lén đi tắm khi mọi
người đang tọa thiền. Thậm chí ngủ nửa đêm cũng thức dậy đi tắm, có khi một đêm
tắm năm, sáu lần! Việc này đến tai đức Phật. Thế Tôn kêu Tôn giả đến bên, chỉ
dạy cách tắm rửa thiết thực, nghĩa là ngoài việc tẩy rửa thân thể còn phải tẩy
rửa cấu uế trong tâm, gột sạch các tham sân phiền não để cả thân tâm đều thanh
tịnh.
Tiếp nhận lời Phật dạy,
Tôn giả hành trì theo ý nghĩa đích thực của việc tắm rửa, siêng năng gột rửa tâm
nên chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Từ đó tắm rửa là một pháp tu hữu dụng
thiết thực mà Tôn giả thường khuyên dạy mọi người. Các tự viện Trung Hoa thường
thờ hình tượng Ngài trong nhà tắm để nhắc nhở ý nghĩa phản tỉnh tư
duy.
Tôn giả cũng thường dong
thuyền đi hoằng hóa các quần đảo của miền đông Ấn Độ như Java, Jakarta… nên được
mang tên La-hán Quá Giang.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là
vị La-hán thứ sáu, thường cùng 900 vị A-la-hán trụ tại
Đam-một-la-châu
12. La Hán Thác
Tháp

Đúng thật là Tôn giả hiếm
khi lãng phí thời gian vào việc tán gẫu, chỉ dành trọn thời gian tọa thiền nên
chứng quả A-la-hán rất sớm.
Đương thời vua nước
Án-đạt-la muốn xây dựng một tinh xá u tịch tại núi Hắc Phong, nhưng tìm không ra
những tảng đá lớn. Tôn giả chỉ cần vận thần thông trong một đêm, mang đến vô số
đá rất lớn từ bên kia sông Hằng. Quốc vương lại muốn tạo một pho tượng thật lớn
bằng vàng tôn trí trong tinh xá nhưng kho lẫm quốc gia không đủ cung ứng. Tôn
giả chỉ cần nhỏ vài giọt nước xuống mấy phiến đá, chúng đều biến thành vàng.
Quốc vương vui mừng gọi thợ giỏi nhất, đến lấy vàng đúc tượng để nhân dân chiêm
lễ.
Năm trăm năm sau Phật
diệt độ, Tôn giả nhiều lần hiện thân tại nước Kiện-đà-la để giáo hóa. Hình tượng
Ngài được tạo với bảo tháp thu nhỏ trên tay, tháp là nơi thờ xá-lợi Phật, giữ
tháp bên mình là giữ mạng mạch Phật pháp, vì thế Ngài được gọi là La-hán Nâng
Tháp.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài
Tô-tần-đà là vị La-hán thứ tư, thường cùng 700 vị A-la-hán phần nhiều trụ ở Bắc
Câu Lô Châu.

Bán-thác-ca lớn lên là
một thanh niên trí thức, nhân mỗi khi theo ông ngoại đi nghe Phật thuyết pháp,
bèn có ý định xuất gia. Được gia đình chấp thuận, Ngài gia nhập Tăng đoàn, trở
thành một vị Tỳ-kheo tinh tấn dõng mãnh, chẳng bao lâu chứng quả A-la-hán. Nhớ
đến em mình là Châu-lợi-bàn-đặc, Ngài trở về hướng dẫn em xuất gia. Rất tiếc,
thời gian đầu thấy em mình quá dốt nên Ngài khuyên em hoàn tục. Đó cũng là vì
tình thương và trách nhiệm nên Tôn giả đối xử như thế, hoàn toàn không phải giận
ghét.
Về sau, khi
Châu-lợi-bàn-đặc chứng Thánh quả, chính Tôn giả Bán-thác-ca là người mừng hơn ai
hết. Cả hai anh em dẫn nhau về pháp đường, đại chúng cảm động tán thán ngợi
khen. Đức Phật dạy: "Này Bán-thác-ca và Châu-lợi-bàn-đặc, khó ai được như hai
anh em các ông, vừa cùng xuất gia học đạo, vừa tận trừ phiền não lậu hoặc, chứng
quả A-la-hán. Sau này hai ông nên đồng tâm hiệp lực lưu lại nhân gian để hoằng
dương Phật pháp".
Hai tôn giả vâng lời Phật
nên thường tùy hỷ hóa độ chúng sanh.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả
Bán-thác-ca là vị La-hán thứ mười, Ngài thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở
Tất-lợi-dương-cù-châu.

Về phía Bắc tinh xá Trúc
Lâm có ao Ca-lan-đà, nước trong mát có thể trị lành được nhiều bịnh, đức Phật
vẫn thường đến đó thuyết pháp. Sau khi Phật diệt độ, nước ao bỗng cạn khô, ngoại
đạo bèn phao tin rằng Phật pháp đã suy vi. Tôn giả Phạt-xà-la-phất-đa-la từ châu
Bát-thích-noa bay đến, lấy tay chỉ xuống ao, lập tức nước đầy trở lại. Tôn giả
bảo mọi người rằng:
- Nước ao cạn khô vì mọi
người không có niềm tin kiên cố nơi Phật pháp. Nếu tất cả đều vâng lời Phật dạy,
một lòng tín thọ phụng hành như khi Phật còn tại thế thì tôi bảo đảm nước trong
ao sẽ không bao giờ cạn khô.
Mọi người nghe Tôn giả
nói, ngưỡng vọng uy thần và nhiệt tâm hộ trì Phật pháp của Tôn giả nên phát khởi
lòng tin Tam bảo. Từ đó nước ao luôn trong xanh và tràn đầy.
Qua câu chuyện trên chúng
ta có thể thấy các bậc La-hán luôn ở tại nhân gian để xiển dương pháp
Phật.
Theo Pháp Trụ Ký, ngài là
vị La-hán thứ 8, thường cùng 1.100 vị La-hán? trụ ở châu Bát-thích-noa.

Đương thời của Tôn giả,
có ngoại đạo Uất-đầu-lam-tử, công phu thiền định cao, từng biện bác với hy vọng
chinh phục Tôn giả theo pháp thuật của mình. Nhưng với niềm tin chân chánh, Tôn
giả khẳng định rằng chỉ có công phu tọa thiền, quán chiếu bằng trí tuệ, sức nhẫn
nhục bền bỉ, nghiêm trì tịnh giới mới đạt được định lực không thối chuyển. Pháp
tu luyện ngoại đạo chỉ được định lực tạm thời, không thể an trú vĩnh viễn trong
pháp giải thoát, khi gặp cảnh bên ngoài quấy nhiễu sẽ bị hủy
hoại.
Sau này quả nhiên
Uất-đầu-lam-tử thọ hưởng sự cúng dường nồng hậu của vua nước Ma-kiệt-đà, vì khởi
vọng tâm mà toàn bộ công phu tiêu tán, sau khi chết lại rơi vào địa ngục. Tôn
giả Nặc-cù-la dùng thiên nhãn thấy rõ điều ấy, một lần nữa cảnh giác với vua
Ma-kiệt-đà:
- Đó chính là pháp tu
không rốt ráo của ngoại đạo, những phiền não căn bản của con người chưa được
diệt trừ hết.
Vua nghe Tôn giả giải
thích mới hiểu được Phật pháp chân chánh đáng quý, phát khởi niềm tin nơi Tôn
giả.
Theo Pháp Trụ Ký, Tôn giả
Nặc-cự-la được xếp vào vị trí La-hán thứ năm, Ngài thường cùng 800 vị A-la-hán
trụ ở Nam Thiệm Bộ Châu.

Nhân một hôm Tôn giả dùng
thần thông lấy cái bát quý treo trên cây trụ cao của một trưởng giả, bị Phật quở
trách việc biểu diễn thần thông làm mọi người ngộ nhận mục đích tu học Phật
pháp. Phật dạy Tôn giả phải vĩnh viễn lưu lại nhân gian để làm phước điền cho
chúng sanh, vì thế trong các pháp hội Tôn giả thường làm bậc ứng cúng. Một lần ở
thời Ngũ Đại, triều vua Ngô Việt thiết trai, có một Hòa thượng lạ, tướng mạo gầy
ốm, lông mày dài bạc trắng bay đến ngồi vào chỗ dành cho khách quý mà ăn uống
vui vẻ. Ăn xong Ngài tuyên bố Ngài là Tân-đầu-lô. Dưới thời vua A-dục và vua
Lương Võ Đế, Ngài đích thân hiện đến giáo hóa, làm tăng trưởng lòng tin. Thời
Đông Tấn ngài Đạo An là bậc cao tăng phiên dịch kinh điển thường lo buồn vì sợ
chỗ dịch của mình sai sót. Ngài khấn nguyện xin chư Hiền Thánh hiển lộ thần tích
để chứng minh. Tối hôm đó Ngài nằm mộng thấy một vị Hòa thượng lông mày trắng
nói:
- Ta là Tân-đầu-lô ở Ấn
Độ, lấy tư cách là một đại A-la-hán, ta bảo chứng những kinh điển ông dịch đều
rất chính xác.
Tôn giả Tân-đầu-lô là một
vị La-hán rất gần gũi nhân gian, Pháp Trụ Ký xếp Ngài là vị La-hán thứ nhất,
thường cùng 1.000 vị La-hán trụ ở Tây Ngưu Hóa Châu.
17. La Hán Trầm
Tư

Sau khi chứng quả
A-la-hán, Ngài vẫn lặng lẽ tu tập. Đức Phật khen tặng Ngài là Mật hạnh đệ nhất
và chọn Ngài vào trong số 16 La-hán lưu lại nhân gian. Với đức tánh lặng lẽ,
Ngài được tặng danh hiệu La-hán Trầm Tư.
Sau Phật diệt độ, vua
nước Câu-thi-na không tin Phật pháp, đập phá chùa viện, thiêu hủy kinh tượng, số
người xuất gia giảm sút. Có một Hòa thượng ôm bát vào thành khất thực, nhưng cả
thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm Ngài mới gặp một gia đình tin Phật cúng
cho bát cháo nóng. Hòa thượng hớp xong miếng cháo thở dài, thí chủ hỏi thăm thì
được Hòa thượng kể lại thời Phật còn tại thế, Ngài cũng từng theo Phật đến đây
khất thực, lúc ấy nhà nhà tranh nhau cúng dường, khác hẳn ngày nay. Hòa thượng
tiết lộ thân thế mình chính là La-hầu-la, mấy trăm năm nay dốc lòng hoằng dương
Phật pháp.
Theo Pháp Trụ Ký, Ngài là
vị la-hán thứ mười một, thường cùng 1.100 vị A-la-hán trụ ở Tất-lợi-dương-cù
châu.

Ngài cũng là một trong
những thị giả Phật, khi chứng quả xong vẫn thường du hóa trong dân gian. Một hôm
đến nước Đạt-ma-tất-thiết-đế, nhân dân nước này không tin Phật pháp, chỉ thờ quỷ
thần sông núi. Thái tử nước này bệnh nặng, vua cho mời danh y trị bệnh và thỉnh
giáo các nhà tu ngoại đạo. Các vị ấy bảo: “Đại vương chớ lo, bệnh của Thái tử
không cần uống thuốc cũng khỏi.” Khi gặp tôn giả A-thị-đa, vua hỏi thử thì Tôn
giả bảo rằng bệnh không qua khỏi. Vua rất tức giận bỏ đi. Một tuần sau, Thái tử
chết thật, vua tạm thời không tổ chức tang lễ, ngày hôm sau vua đi gặp tôn giả
A-thị-đa, Ngài chia buồn với vua, còn khi vua gặp các ngoại đạo thì lại nghe
chúc mừng Thái tử hết bệnh. Điều này chứng tỏ các ngoại đạo không có dự kiến
đúng đắn. Nhà vua từ đó quy ngưỡng Phật pháp. Nhờ sự hoằng dương của Tôn giả mà
Phật pháp hưng thịnh ở nước này.
Đã hơn 2.000 năm, nhưng
tại Ấn Độ vẫn tin rằng tôn giả A-thị-đa còn đang trị bệnh cho người hay tọa
thiền trên núi.
Pháp Trụ Ký xếp Ngài là
vị La-hán thứ mười lăm, thường cùng 1.500 A-la-hán trụ trong Linh Thứu
Sơn.

La Hán Đường Thiền Viện
Thường Chiếu, nơi thờ 18 vị La Hán đã được khánh thành vào tháng 1 năm 2006 (tức
tháng chạp năm Ất Dậu). Ngôi nhà được kiến trúc theo phong cách Việt Nam. Nhà 9
gian bằng gỗ, mái ngói. Mái cong hài hoà, tạo cho ngôi nhà thật hùng tráng, uy
nghi.
Tại miền bắc đã có nhiều ngôi chùa thờ 18 vị La Hán chẳng hạn
như chùa Tây Phương, chùa Dâu,… nhưng riêng tại miền Nam, có thể nói đây là nơi
thờ 18 vị La hán đầu tiên. Tất cả những thiết kế mẫu mã hình tượng đều do Thiền
viện thực hiện.
__._,_.___
-XIN DELETE EMAIL NAY NEU NO LAM PHIEN BAN !
HOANG PHONG= Thiền định là gì ? Hoang Phong chuyển ngữ
TO: More recipients
CC: recipientsYou
More
BCC: 1 recipientsYou
Thiền định
là gì ? (Fabrice Midal)
Hoang Phong chuyển ngữ
Hoang Phong chuyển ngữ
Hỡi những ai mong muốn bảo vệ tâm thức mình!
Với đôi bàn tay chắp lại,
tôi xin được khuyên họ một lời này:
Hãy cố gắng,
giữ cho sự chú tâm và cảnh giác luôn thật mạnh,
bằng tất cả nghị lực của chính mình.
Tịch Thiên (Shantideva)
Lời giới thiệu của
người dịch:Với đôi bàn tay chắp lại,
tôi xin được khuyên họ một lời này:
Hãy cố gắng,
giữ cho sự chú tâm và cảnh giác luôn thật mạnh,
bằng tất cả nghị lực của chính mình.
Tịch Thiên (Shantideva)
Tác giả Fabrice Midal là một nhà sư người Pháp, đỗ tiến sĩ triết học tại đại học Sorbonne Paris. Ông có một cách hành văn rất chính xác, thiết thực, thế nhưng cũng thật sâu sắc và uyên bác. Ông không viết với ngòi bút phân tích của một học giả Phật Giáo mà bằng con tim mở rộng của một vị thiền sư.
Trong một quyển sách nhỏ mang tựa đề "Phật Giáo Nhập Môn" (ABC du Bouddhisme, nhà xuất bản Grancher, 2008), sau khi trình bày về hiện trạng ngày nay của Phật Giáo tại Tây Phương trong chương I, thì tiếp theo đó trong chương II ông đã đề cập ngay đến một chủ đề thật then chốt trong Phật Giáo là thiền định. Thật thế, một tôn giáo muốn được xem là toàn vẹn cần phải có một nền móng vững vàng về cả hai mặt: trước hết là một cấu trúc chặt chẽ về tín ngưỡng, và sau đó là một phương pháp tu tập thích nghi. Thiết nghĩ ngoài phần giáo lý siêu việt thì Phật giáo còn cống hiến một phương pháp tu tập thật khoa học, thiết thực và vô cùng sâu sắc. Dưới đây là phần chuyển ngữ toàn bộ chương II của tập sách nói về thiền định.
Cũng xin mạn phép lưu ý người đọc là diễn tả một thể dạng tâm linh bằng lời nói hay bằng chữ viết mang tính cách công thức, quy ước và "thô thiển" đã là một việc khó, thế nhưng dịch thuật đôi khi cũng phải đối đầu với các khó khăn khác nữa, đấy là phải làm thế nào để chuyển đạt một cách trung thực đươc ý nghĩa đã được diễn tả bằng một ngôn ngữ khác. Nhằm mục đích tránh bớt phần nào các khó khăn này người dịch xin mạn phép ghép thêm vào nguyên bản một vài lời ghi chú nếu thấy cần nhằm giúp người đọc dễ theo dõi hơn. Các lời ghi chú này sẽ được trình bày bằng chữ nghiêng, đặt giữa hai dấu ngoặc, nhằm để dễ nhận biết và nhất là để kính trọng sự toàn vẹn của nguyên bản.
*****
SOURCE LINK ---> Luyện tập thiền định là gì ?
E-Temple: HoPhap.Net
BÌNH ĐÀO= Mơ Một Mùa Phật Đản (Repost)
TO: More recipients
CC: recipientsYou
More
BCC: 1 recipientsYou
.Mơ Một Mùa Phật Đản.
Ngày nay Đại Lễ Vesak (Hợp nhất
của ba ngày Đản Sinh, Thành Đạo và Nhập Diệt) của Đức Phật đã được Liên Hiệp
Quốc công nhận. Trong ngày lễ này, Tổng Thư Ký LHQ, các vị nguyên thủ quốc gia,
các giới chức chính quyền cao cấp tại những quốc gia Phật Giáo, hoặc tham dự
hoặc gửi điện văn chúc mừng, chiêm bái tự viện, viếng thăm hoặc dâng hoa cúng
dường chư tăng ni và Lễ Hội Phật Đản đã được quần chúng tổ chức trang nghiêm,
cung kính. Tuy nhiên theo thiển ý nó vẫn chưa cân xứng với tầm vóc của một tôn
giáo hiện diện trên 2500 năm mà vị giáo chủ là một bậc thầy vĩ đại của nhân lọai
mà giáo pháp của Ngài đang dần dần trở thành Lương Tâm Của Nhân
Lọai. Một tôn giáo mà quá trình phát triển của nó không làm tổn hại tới
một sinh linh, không hủy diệt văn hóa, truyền thống bản địa, không bị kết tội
diệt chủng, không gây thánh chiến, không khủng bố, không tiến hành những cuộc
chinh phạt đẫm máu. Một tôn giáo Tối Thiện, Tối Lành, Thực
Tiễn nhưng vô cùng Khiêm Tốn. Một tôn giáo như thế thì
ngày đản sanh của đức giáo chủ phải được tổ chức như thế nào- không ngòai mục
đích làm sáng tỏ những đức tính ưu thắng của Phật Giáo, đồng thời cũng là dịp để
chúng sinh được tắm gội trong “pháp vũ”, hiển lộ Phật tánh có sẵn trong
Tâm mình, để từng chúng sinh, từng bộ tộc, từng quốc gia hoặc toàn thế giới, ít
ra có một ngày sống trong Thanh Tịnh, Giải Thóat, Yêu Vui, Thương
Yêu, Cảm Thông với nhau. Trong tinh thần đó, tôi đã mơ một Mùa Phật Đản trong đó
những gì chúng ta không nên làm và những gì chúng ta cần
phải làm. Những điều đó như sau:
1)
Không nên mua sắm ồn ào, tiệc tùng hoang phí,
đốt pháo bông (pháo hoa). Thanh niên, thiếu nữ không nên lái xe đua lượn trên
đường phố để biến ngày linh thiêng thánh thiện thành một ngày gây chết chóc vì
tại nạn lưu thông, ăn nhậu thỏa thích, là một dịp để chào hàng, quảng cáo, bán
buôn, tiêu thụ.
2)
Là ngày mà các nhà máy nghỉ ngơi, tạm ngưng
nhả khói lên trời để tòan dân được thở hít không khí trong lành. Mùa Phật Đản
cũng là mùa bảo vệ môi trường.
3)
Ngày mà các lò sát sinh ngưng họat động để
chúng ta không tạo thêm nghiệp dữ, và cũng để cho trâu, bò, lợn, gà… có thể sống
thêm một ngày, vì lòai vật cũng có tình cảm và yêu mến cuộc sống như chúng ta.
Ngày Phật Đản là ngày không giết hại và bảo vệ thú
vật.
4)
Ngày mà các trò chơi săn bắn, đua ngựa, đấu
bò, chọi gà, câu cá ..cũng tạm ngưng để cho lòai thú được nghỉ ngơi, chúng nó
được rong chơi, chúng nó được nhởn nhơ, bơi lội, bay
lượn.
5)
Ngày mà nhà nhà, người người đều ăn chay,
không cần những món ăn cầu kỳ …vừa bảo vệ sức khỏe, hơi thở nhẹ nhàng thơm tho,
vừa nhắc nhở mình trau giồi đạo đức.
6)
Ngày mà phụ nữ không đeo nữ trang, không mặc
áo lông thú, không xức nước hoa bởi vì người phụ nữ không phải chỉ đẹp vì kim
cương, vàng bạc, lụa là mà còn đẹp vì phẩm hạnh nữa.
7)
Ngày mà các các quán nhậu, bia ôm, tắm hơi,
đấm bóp, phòng trà, ca vũ, sòng bài cũng tạm đóng cửa để tâm hồn được thanh
thản, để có dịp lắng đọng tâm tư, giống như những giây phút nghỉ ngơi cho một
một chiếc xe, một con tàu trong cuộc hành trình dài.
8)
Ngày mà các pháp đình ngưng xét xử, án tử hình
cũng khoan thi hành để các quan tòa bớt đau đầu nhức óc, để các luật sư bớt chộn
rộn lo toan, để tử tội được hưởng thêm một ngày sống
sót.
9)
Ngày mà chúng ta bảo nhau đi thăm viếng các
trại giam, an ủi các phạm nhân bởi xét cho cùng họ đều là những người đáng
thương, là nạn nhân của nguồn tam độc Tham-Sân-Si giống như Vua Lý Thánh Tông
ngồi xử án ở Điện Thiên Khánh năm 1064 đã chỉ vào Động Thiên Công Chúa đang đứng
bên cạnh mình và phán với triều thần “ Trẫm yêu thương thần dân của trẫm cùng
nhiều như yêu thương con gái trẫm. Họ phạm tội vì họ không biết (luật) và trẫm
có nhiều tình thương cho họ. Từ nay trở đi, trẫm muốn tất cả các tội phạm, nặng
hay nhẹ, đều phải được xét xử với sự khoan hồng.” Làm được như thế thì chúng
ta đã thể hiện đúng lời nguyện của Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát và làm sống lại
thời đại huy hòang Đinh- Lê-Lý- Trần.
10)
Ngày mà chúng ta bảo nhau đi thăm các cô nhi
viện, cho các em ăn, cho các em tắm, cho các em đồ chơi, an ủi người già trong
các viện dưỡng lão, tặng những đóa hoa cho những người côi cút. Sự thăm viếng,
ủi an…dù chỉ là trong đôi phút nhưng quý gía vô vàn bởi vì chúng ta không quên
nhau.
11)
Ngày mà mọi người khi ra đường chào nhau bằng
tiếng “A Di Đà Phật” hoặc “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”.
Thái Tử Tất Đạt Đa là Phật đã thành, tất cả chúng ta đều là Phật sẽ thành.
12)
Ngày mà tâm ý mọi người thật nhẹ nhàng, bao
dung, cử chỉ khoan thai. Không vội vàng. Không hấp tấp. Không nóng giận. Ngày mà
mọi tranh chấp đều có thể bỏ qua, vui mà xả bỏ do đó mà cảnh sát, an ninh, tòa
án, chính quyền cũng bớt đau đầu, căng thẳng. Ngày không có lời đay nghiến,
nguyền rủa, kết tội, nhục mạ, đánh đập, tra tấn. Một ngày thật thanh tịnh, an
lành. Làm được như thế là chúng ta đã “đồng cư Tịnh Độ” với các bậc hiền
thánh.
13)
Ngày mà khắp nơi treo đèn kết hoa, người người
bảo nhau thăm viếng chùa chiền, cúng dường chư tăng ni. Còn đối với chư tăng ni,
đây là dịp để quán xét lại mình, xem mình có xứng đáng là bậc “Ứng Cúng”,
theo đúng lời dạy của Thế Tôn? Có xứng đáng là đấng “trưởng tử của Như
Lai” không?
14)
Ngày mà quê hương đất nước không có một tiếng
khóc, không tiếng oán than. Ngày tặng quà, thực phẩm, thuốc men, tài vật cho
người nghèo khó. Ngày mà không một ai bị bỏ rơi. Mọi người đều được quan tâm,
được an ủi, được giúp đỡ.
15)
Ngày mà chúng ta gửi những tấm thiệp chúc lành
tới bằng hữu, thầy cô, gọi là Thiệp Phật Đản. Ở xa nếu không thể
về thăm, thì cũng gọi điện thọai, gửi điện thư chúc mừng cha mẹ, anh chị em được
tăng tuổi thọ và “thân tâm thường an lạc”.
16)
Nhưng dù sao, tất cả những gì nói ở trên vẫn
thuộc “hình, danh, sắc, tướng”. Chúng ta phải làm sao để tất cả
cùng được hưởng những giây phút bình an “thân tâm vắng lặng” và đó
cũng chính là chỗ an trú của Chư Phật và Chư Bồ Tát. Thiết nghĩ, sau khi đã làm
tất cả những gì nói ở trên, chúng ta nên tổ chức một cuộc tọa thiền vĩ đại tại
một trung tâm, một quảng trường, một đạo tràng giống như Đạo Tràng Dhammakaya
Cetiya ở Thái Lan với sức chứa khoảng 1 triệu người. Trong cuộc tọa thiền vĩ
đại này, sau lễ cầu cho Quốc Thái Dân An, dưới sự hướng dẫn của chư tăng, ni tất
cả sẽ ngồi trong tư thế kiết già, lắng đọng tâm tư, nhập chánh định. Tôi nghĩ
rằng trong giờ phút linh thiêng, màu nhiệm này đây, các vầng mây ấm áp, vầng mây
kiết tường, các vầng mây hỉ xả, các vầng mây giải thóat sẽ theo gió mà bay tới,
chư Thiên, Trời Đế Thích, Thiên Long Bát Bộ sẽ trải hoa tán tán ở trên không và
“Chư Phật Hải Hội Tất Dao Văn”. Chỗ chúng ta đang ngồi là Đất Phật, là
Quốc Độ là Tịnh Độ, là Tòa Sen tỏa ngát hương thơm, còn gì hoan hỉ cho
bằng?
Trải qua 2000 năm, con người đã
quỳ lạy, van vái, cầu nguyện thần linh nhưng thế giới ngày hôm nay quá nhiều hận
thù (hatred), quá nhiều bạo lực (violence), quá nhiều căng thẳng (stress), quá
nhiều thúc ép (pressure), quá nhiều thuốc ngủ, thuốc an thần và dĩ nhiên quá
nhiều đau khổ. Đã đến lúc chúng ta phải “tự thắp đuốc lên mà đi”
như lời Phật dạy. Bằng nỗ lực và trí tuệ con người đã khám phá ra trái đất quay
chung quanh mặt trời. Bằng bằng nghiên cứu con người đã có thể bay trên trời
bằng chiếc máy bay, thám hiểm và bước ra ngòai không gian bằng chiếc phi thuyền.
Bằng khoa học, con người đã có thể đi dưới nước bằng chiếc tàu ngầm, có thể chế
ra thuốc men để chữa bệnh. Vậy thì cũng bằng nỗ lực và trí tuệ con người có thể
tự kiến tạo hạnh phúc cho chính mình. Với tinh thần Bi-Trí-Dũng
con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn
tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng ở bất cứ nơi nào
khác. Ngày Phật Đản là một thuận duyên tốt lành nhất để làm điều đó và
chúng ta có thể làm được. Trong tinh thần Bi-Trí-Dũng, thì Dũng là điều
quan trọng nhất. Dũng ở đây không có nghĩa là dũng cảm tiến lên
tiêu diệt quân thù, hoặc tiến lên để giành chiến thắng. Mà Dũng có nghĩa là dũng
cảm làm điều thiện, dũng cảm chiến đấu với những điều bất thiện, dũng cảm đương
đầu với những cám dỗ không chính đáng, dũng cảm chiến đấu chống lại sự kiêu
căng, ngã mạn trong con người mình. Cuộc chiến đấu này rất cam go mà nếu không
chiến thắng được thì Bạo Lực, Tham Tàn, Kiêu Căng, Cuồng Điên, Vô
Minh sẽ lên ngôi thống trị. Lúc đó con người sẽ trở thành
một sức mạnh để hủy diệt chính nó và hủy diệt đồng lọai. Ý nghĩa của Đại Hùng,
Đại Lực của nhà Phật là như thế đó.
Nói về
hạnh phúc và an vui chung, chúng ta đừng tưởng rằng chúng ta có thể sống thản
nhiên trước sự nghèo đói, khổ đau và ngu dốt của người khác. Chúng ta đang sống
trên hành tinh này, ẩn dụ như tất cả cùng ngồi trên một con tàu. Giả sử trên con
tàu có một ngàn người mà chỉ có khoảng 100 người được ăn uống no đủ, trang phục
đẹp đẽ và học hành tới nơi tới chốn. Chín trăm con người còn lại đều là những
người thiếu ăn, thiếu mặc, không được học hành chi cả …thì số phận con tàu sẽ
như thế nào? Ý niệm cộng nghiệp của nhà Phật cho thấy chúng ta
không những chỉ chết vì nghiệp dữ của mình gây tạo trong quá khứ mà còn chết vì
cộng nghiệp. Cứ nhìn vào lịch sử lòai người khoảng một thế kỷ nay
thôi chúng ta thấy sự Nghèo Đói và Ngu Dốt là vũ khí
hủy diệt còn ghê gớm hơn bom nguyên tử. Ngay tại Hoa Kỳ là quốc gia giàu mạnh
nhất thế giới, có những khu gần như bỏ hoang, ít ai dám cư ngụ chỉ vì dân ở đây
nghèo quá và không được học hành. Cho nên để thế giới này yên vui và cũng
là để bảo vệ hạnh phúc của chính mình, chúng ta phải quan tâm đến người
khác. Sau khi đã phấn đấu với đời để ngoi lên, chúng ta cần san sẻ bớt
thực phẩm, quần áo cho người nghèo khó. Hãy cho họ ăn no như chúng ta được ăn
no. Hãy cho những người kém may mắn được học hành, mở mang trí tuệ như chúng ta
đã được học hành, mở mang trí tuệ. Chúng ta đã có tình thương rồi thì san sẻ một
chút tình thương cho đồng lọai. Chư vị Bồ Tát là những vị
đã vượt qua nỗi bất hạnh của chúng sinh, quay trở lại nhìn chúng sinh, xót
thương mà phát nguyện cứu độ. Chúng ta thờ phượng chư vị Bồ Tát là thờ phượng
cái hạnh nguyện “cứu đời, cứu khổ” của các ngài, và chúng ta sẽ
trở thành Bồ Tát khi chúng ta làm đúng những gì chư vị Bồ Tát đã làm. Tinh hoa
của Đạo Phật, sự linh thiêng, thánh thiện, sự trường tồn trong gian khổ của Đạo
Phật là ở chỗ đó. Làm như thế là chúng ta sẽ thể hiện đúng tinh thần của Ngài
Phổ Hiển Bồ Tát trong Pháp Hội Hoa Nghiêm “Hằng thuận lợi ích của chúng
sinh là cúng dường chư Phật.” Ngày Phật Đản là một thuận duyên lớn lao
để thể hiện hạnh nguyện này. Xin trình bày với tất cả tấm lòng để những bậc
thiện tri thức cùng chia xẻ./.
Đào Văn Bình
(Mùa Phật Đản 2554-
2010)
|
No comments:
Post a Comment